QĐND - Những năm gần đây, sản lượng lúa của Việt Nam liên tục tăng. Tuy nhiên, gạo xuất khẩu của Việt Nam thường có giá bán thấp hơn so với các nước xuất khẩu gạo, đặc biệt là gạo Thái Lan. Vậy đâu là nguyên nhân khiến giá gạo của Việt Nam thường xuyên bị “lép vế” so với gạo của Thái Lan?
Thiếu thương hiệu, gạo Việt chịu thiệt
Cùng một chủng loại gạo xuất khẩu nhưng gạo Thái Lan thường có giá cao nhất và gạo Việt Nam có giá thấp nhất. Chẳng hạn, cùng là gạo hạt dài chất lượng cao, nhưng gạo của Thái Lan có giá 592USD/tấn, trong khi gạo của Việt Nam chỉ có 415USD/tấn. Tương tự, gạo thơm Hom Mali của Thái Lan có giá 1.025USD/tấn, còn gạo thơm của Việt Nam 5% tấm chỉ có giá 625USD/tấn.
Kết quả nghiên cứu của Liên minh "Vì quyền của người nông dân và hiệu quả của nền nông nghiệp Việt Nam", gọi tắt là Liên minh Nông nghiệp, bao gồm các chuyên gia hàng đầu và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế, như: TS Võ Trí Thành, GS Võ Tòng Xuân, TS Đào Thế Anh, TS Nguyễn Đức Thành..., 93% nông dân các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long bán lúa tươi tại ruộng cho các thương lái. Do có quy mô nhỏ, không có kho chứa, ít vốn, họ dễ bị các thương lái ép giá và thường chịu nhiều rủi ro nhất khi có biến động bất lợi trên thị trường. Sự thiếu vắng của các hình thức tín dụng vi mô khiến họ bị phụ thuộc nhiều vào các đại lý cung ứng đầu vào, hoặc tạm ứng của các môi giới, thương lái quen thuộc. Quyết định sản xuất của nông dân hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm, thiếu sự gắn kết với doanh nghiệp xuất khẩu và họ hầu như không có khả năng mặc cả giá trên thị trường.
 |
Phơi lúa ở xã Tân Hưng, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: Nguyễn Kiểm.
|
Theo Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế (IRRI), chi phí sản xuất lúa gạo của Việt Nam đang đứng hàng cao nhất so với các nước, điều này khiến giá thành sản xuất gạo cao. Nguyên nhân giá thành sản xuất gạo của Việt Nam cao gồm: Sử dụng giống, phân bón, thuốc trừ sâu, nước chưa hợp lý. Ngoài ra, việc chậm cơ giới hóa vào sản xuất, chế biến cũng là nguyên nhân đẩy giá thành sản xuất lúa gạo của Việt Nam lên cao. Trong khi đó, tỷ lệ tổn thất trước, trong và sau thu hoạch vẫn còn ở mức cao hơn 10% là những nguyên nhân chính đẩy giá thành lúa gạo tăng cao.
Ông Đoàn Ngọc Phả, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông tthôn An Giang, nhận xét: Do gạo Việt Nam chưa có thương hiệu nên thường bán giá thấp hơn so với các nước, cụ thể loại gạo 5% tấm của Việt Nam có giá bán thấp hơn gạo cùng loại của Thái Lan, Ấn Độ.
Hướng đi nào cho hạt gạo Việt?
Trước xu hướng gia tăng cạnh tranh xuất khẩu gạo trên thế giới, gạo Việt Nam sẽ ngày càng gặp khó khăn. Vì vậy, cần sử dụng linh hoạt quỹ đất trồng lúa thay vì quy định cứng 3,8 triệu héc-ta quỹ đất trồng lúa, Chính phủ nên phân quỹ này thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là đất chuyên dụng trồng lúa do có lợi thế cạnh tranh hơn hẳn các loại cây trồng hằng năm khác. Nhóm thứ hai là đất có khả năng dễ dàng chuyển đổi sang các loại cây trồng hằng năm khác trong trường hợp trồng lúa không cạnh tranh bằng và ngược lại. Việc quyết định trồng các loại cây hằng năm gì là lựa chọn riêng của mỗi hộ nông dân theo nhu cầu của thị trường.
Với chính sách này giúp Việt Nam có thể chủ động điều tiết được nguồn cung trồng lúa một cách linh hoạt theo biến động của nhu cầu tiêu thụ gạo trên thị trường thế giới, đồng thời vẫn bảo đảm được yêu cầu bảo vệ đất lúa, bảo đảm được an ninh lương thực.
Tiến sĩ Bùi Bá Bổng, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông, chuyên gia cao cấp của FAO, cho rằng: Việt Nam chuyển từ tập trung tăng sản lượng lúa gạo thời gian qua sang tập trung đầu tư nâng cao chất lượng là việc cần thiết và đúng đắn để gia tăng giá trị cho hạt gạo, tăng thu nhập cho nông dân. Cùng với đó, việc Việt Nam đã có những chính sách kiên quyết bảo vệ đất lúa là rất tốt. Tuy nhiên, việc bảo vệ đất lúa nhưng phải bảo đảm sử dụng linh hoạt để phát huy hiệu quả kinh tế từ loại đất này .
Ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Công ty CP Bảo vệ thực vật An Giang, khẳng định: Chúng ta chỉ có thể làm giàu, cạnh tranh được với các nước khi chúng ta đưa khoa học-công nghệ đối với cây lúa ngay từ khâu làm giống, thu hoạch, chế biến... làm tăng giá trị của hạt lúa. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ chính là “chìa khóa” giúp ngành nông nghiệp nói chung, lúa gạo nói riêng nâng cao được sức cạnh tranh trên thị trường.
Để tăng giá trị hạt gạo Việt, hiện Công ty CP Bảo vệ thực vật An Giang đang xây dựng thương hiệu gạo “Hạt Ngọc Trời” với mục tiêu chính là hướng đến người tiêu dùng nội địa trong ba năm tới. Muốn xây dựng thương hiệu gạo thành công thì trước hết, thương hiệu đó phải chinh phục được các “thượng đế nội địa”. Việc chinh phục được các "thượng đế nội địa” sẽ góp phần hỗ trợ tích cực cho việc xây dựng thương hiệu trên thị trường quốc tế. Quá trình xây dựng thương hiệu gạo “chinh phục” người tiêu dùng trong nước cũng đồng thời là cơ sở để đưa thương hiệu “Hạt Ngọc Trời” tiến ra thế giới-ông Huỳnh Văn Thòn khẳng định. Vì vậy, để xây dựng thương hiệu thành công cho gạo Việt rất cần sự hỗ trợ khuyến khích của Nhà nước cho các doanh nghiệp, nhất là thuế. Ngoài ra, việc sử dụng giống lúa chất lượng, chế biến tốt và có thương hiệu sẽ giúp giá bán của hạt gạo Việt không còn phải chịu cảnh “lép vế” so với gạo của Thái Lan trong tương lai.
Bài, ảnh: NGUYỄN KIỂM