QĐND - Doanh nghiệp quân đội (DNQĐ) hiện nay phát triển ổn định, trở thành “điểm sáng” của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, để DNQĐ khẳng định phát triển vững chắc, chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước, cạnh tranh hiệu quả với các doanh nghiệp (DN) khác trong khu vực, DNQĐ phải tái cơ cấu, xây dựng chiến lược phát triển phù hợp cả trung và dài hạn...
Điều chỉnh để thích nghi
Phải thừa nhận rằng, DNQĐ thời gian qua đã đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế đất nước, nhất là trong thời điểm nền kinh tế gặp khó khăn (riêng Tập đoàn Viễn thông Quân đội nộp 17.953 tỷ đồng và là một trong ba DN nộp thuế thu nhập cao nhất cả nước năm 2013). Nhưng trước đòi hỏi ngày càng cao, để các DNQĐ phát triển bền vững, nhiều DNQĐ đã điều chỉnh chiến lược phát triển phù hợp với xu thế hội nhập, yêu cầu đặt ra để tránh bị “tụt hậu”. Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng công ty Xây dựng Lũng Lô, Tổng công ty Đông Bắc, Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn… là những ví dụ điển hình về sự năng động.
Với quan niệm thành công hôm nay cũng có thể là “rào cản” của phát triển ngày mai, mô hình tăng trưởng dẫu tốt bao nhiêu cũng không thể phát huy mãi tác dụng nếu không đổi mới để thích nghi, tìm kiếm cho mình mô hình tăng trưởng mới… nên Viettel đã thực hiện mỗi đơn vị, mỗi năm ít nhất thực hiện một lần thay đổi mô hình tăng trưởng. Theo Thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng giám đốc Viettel: “Đơn vị đã chuyển dịch từ một công ty hạ tầng thành một công ty sáng tạo, mở rộng đầu tư ra thị trường ngoài nước, kiện toàn lại bộ máy các đơn vị thuộc lĩnh vực viễn thông, truyền hình; sản xuất thiết bị, phần mềm; tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh. Viettel cũng đã thay đổi ngành nghề kinh doanh và mục tiêu chiến lược như: Chuyển dịch từ công ty trong nước thành công ty toàn cầu; chuyển dịch từ nhà mạng sang nhà cung cấp dịch vụ; thay đổi về cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, chính sách quản trị để luôn phát triển phù hợp. Vì thế, doanh thu của Viettel năm 2013 so với năm 2012 vẫn tăng trưởng 15,2% (đạt 163.499 tỷ đồng), lợi nhuận trước thuế tăng 33% (đạt 36.533 tỷ đồng), nộp ngân sách Nhà nước tăng 63,4% (đạt 17.953 tỷ đồng).
 |
|
Công nhân Xí nghiệp 11, Tổng công ty 319, thi công công trình Trụ sở nhà làm việc-Hội trường Sở Cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy TP Hồ Chí Minh.
|
Diện mạo và sức sống mới
Không chỉ riêng Viettel, các DNQĐ cũng tìm kiếm hướng đi, phát huy lợi thế sẵn có để bảo đảm tăng trưởng bền vững. Tổng công ty Xây dựng Lũng Lô (Bộ Quốc phòng) cũng là minh chứng về sự “chuyển mình” khi phát huy hai mũi nhọn chính hiện nay của tổng công ty là thi công hầm đường bộ, hầm thủy điện, công trình cảng biển, nên đã trở thành thương hiệu số một Việt Nam về thi công các loại công trình này. Trong việc tạo sức hút đối các chủ đầu tư, tổng thầu nước ngoài, Đại tá Tăng Văn Chúc, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc Tổng công ty Xây dựng Lũng Lô cho rằng: “Chính việc nâng cao năng lực thi công đã khiến các đối tác trong và ngoài nước đặt niềm tin, ký kết hợp tác với Lũng Lô. Việc Công ty MECAMIDI S.A và Công ty TNHH Nam Sim khi xây dựng Nhà máy Thủy điện Nam Sim tại Hủa Phăn (Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào) đã chọn Tổng công ty Lũng Lô thi công công trình là minh chứng. Hiện nay, tổng công ty luôn đạt được doanh thu năm sau cao hơn năm trước từ 18-33%, đơn vị có đủ khả năng chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước".
Công ty CP Địa ốc MB (MBLAND) thuộc Ngân hàng Thương mại CP Quân đội (MB) cũng vừa đề nghị MB phê duyệt chiến lược kinh doanh giai đoạn 2014-2017, tầm nhìn 2020. Theo Tổng giám đốc MBLAND, Thiếu tá Vũ Thành Huế: “Đơn vị sẽ tập trung vào 6 trụ cột chính bao gồm: Phát triển quỹ đất, phát triển quỹ nhà, đầu tư tài sản bất động sản có dòng tiền và tăng thu dịch vụ, phát triển dự án khách sạn và resort, tăng trưởng các hoạt động sản xuất, kinh doanh có gắn kết với MB, phát triển dự án MB Grand Tower 63 Lê Văn Lương (Hà Nội)… để tạo dựng uy tín, củng cố niềm tin với khách hàng”. Chính quyết tâm thay đổi để thích nghi, thay đổi để gắn kết, làm việc không có khoảng cách, biên giới nên MBLAND luôn ký được các đơn đặt hàng phát triển quỹ đất, phát triển mạng lưới cho các doanh nghiệp lớn như: Viettel, AEON… 6 tháng đầu năm 2014, MBLAND đạt tăng trưởng 233,3% so với cùng kỳ năm 2013, bảo đảm được hệ số nợ thấp.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNQĐ
Tuy vẫn giữ được đà tăng trưởng, song để DNQĐ phát triển ổn định, giữ được thương hiệu, nắm giữ ưu thế cạnh tranh với các DN trong khu vực còn là cả một chặng đường dài phía trước. Hiện nay cũng còn nhiều DNQĐ (trong đó có DN xây dựng) quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp, hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản phẩm còn nhỏ, trình độ tiếp thị và uy tín bảo hành, bảo dưỡng sản phẩm còn hạn chế. Cũng còn không ít DN hiện nay vốn chủ sở hữu chưa đáp ứng được nhu cầu tăng doanh thu, lợi nhuận mà hoạt động chủ yếu bằng vốn vay nên đã hạn chế hiệu quả sản xuất, kinh doanh và khó đổi mới trang thiết bị. Khó khăn nữa mà các DNQĐ hiện đang phải đối mặt là tình trạng thiếu lực lượng kỹ thuật chất lượng cao, khó khăn về thị trường, công nghệ. Nhiều công ty cổ phần vẫn bị trói buộc về cơ chế tăng vốn điều lệ, đầu tư, tăng năng lực sản xuất… nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động do cơ hội bị bỏ lỡ.
Để tháo gỡ khó khăn cho DNQĐ, Thượng tá Nguyễn Việt Anh, Trưởng phòng Quản lý DN (Cục Kinh tế, Bộ Quốc phòng), cho biết: "Trong xây dựng chiến lược phát triển, ngoài tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, ngành nghề phụ trợ phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, Bộ Quốc phòng còn tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, chế độ để DN phát huy được vai trò tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. Đồng thời cũng tập trung khắc phục hiện tượng manh mún, nhỏ lẻ, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện cho các DN tích luỹ vốn để đầu tư theo hướng chuyên sâu, trở thành các DN mạnh của Nhà nước. Bộ còn chỉ đạo các DNQĐ tăng cường liên kết, hợp tác để tăng năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bảo đảm hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh; ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nhằm giảm chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, xây dựng văn hóa DN.
Tính đến nay, các khối sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị, vật tư kỹ thuật quân sự, cung ứng sản phẩm, dịch vụ lưỡng dụng của quân đội… đã xây dựng xong chiến lược phát triển cho mình. Bộ Quốc phòng cũng đã chỉ đạo, sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp quốc phòng theo Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị (khóa XI) về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo, tạo điều kiện cho DNQĐ “bứt phá” trong thời gian tới.
Bài và ảnh: HOÀNG GIA MINH