“Đáp án” đưa ra không chỉ có chủ thể là nông dân mà cần sự vào cuộc của các cấp, ngành chức năng và đòi hỏi cả một quá trình, bước đi bài bản.

Đồng bộ nhưng chưa đồng loạt

Thống kê từ Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), hiện nay, tỷ lệ Việt Nam ứng dụng CGH để phục vụ SXNN đang tăng nhanh. Giai đoạn 2011-2021, số lượng máy kéo các loại tăng 60%, máy bơm nước tăng 60%, máy gặt đập liên hợp tăng 80%, máy sấy nông sản tăng 30%, chế biến thức ăn gia súc tăng 91%, chế biến thức ăn thủy sản tăng 2,2 lần và phun thuốc bảo vệ thực vật tăng 3,5 lần, máy cấy tăng 10 lần....

Riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đối với cây lúa, khâu làm đất đạt 100%, gieo sạ và cấy đạt 75%, chăm sóc và bảo vệ thực vật là 85%, thu hoạch là 95% và khâu thu gom rơm, rạ là 90%... Với cây ăn trái, khâu làm đất đạt hơn 90%, chăm sóc đạt 60%-70%... Việc chuyển đổi hình tượng truyền thống “con trâu đi trước, cái cày theo sau” bằng các thiết bị cơ giới để phục vụ SXNN ở ĐBSCL những năm gần đây đã góp phần giúp nông dân giải phóng được sức lao động, tiết kiệm chi phí, thời gian, cải thiện chất lượng sản phẩm và tăng thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích canh tác.

 Ứng dụng cơ giới hóa vào thu hoạch lúa của nông dân ở huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ.

Dù số lượng, chủng loại thiết bị phục vụ sản xuất đã có sự tăng trưởng khá nhanh thời gian qua, thế nhưng nhìn nhận tổng thể, CGH ở ĐBSCL hiện chỉ mới tập trung ở một số khâu như làm đất, nước, thức ăn và một số sản phẩm như lúa, mía, cà phê, gia súc, gia cầm, cá, tôm.

“Đồng bộ nhưng không đồng loạt” là nhận định của ông Trần Chí Hùng, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang về việc CGH nông nghiệp tại ĐBSCL hiện nay. Ông Hùng cho rằng, CGH hiện tại còn manh mún nên chưa thật sự phát huy hiệu quả như mong đợi. Dẫn chứng số liệu từ địa phương, ông Hùng cho biết: “Hậu Giang có khoảng 77.000ha trồng lúa. Tỉnh có khoảng 1.400 máy làm đất các loại và 350 máy gặt đập liên hợp, cơ bản đáp ứng nhu cầu CGH trong sản xuất lúa nước của tỉnh ở hai khâu thu hoạch và làm đất. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng lúc thừa, lúc thiếu”.

Việc ứng dụng CGH vào SXNN ở TP Cần Thơ cũng gặp nhiều trở ngại, bởi mức độ CGH ở một số khâu sản xuất tăng nhưng trình độ CGH chưa cao khiến chi phí sản xuất tăng.

Theo ông Trần Thái Nghiêm, Phó giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ: “Việc ứng dụng CGH trong sản xuất ngày càng phát triển theo các hình thức dịch vụ cộng đồng. Hiện thành phố có 24 tổ kỹ thuật ứng dụng CGH trong sản xuất trồng trọt và 110 tổ dịch vụ phun thuốc, bón phân, sạ lúa, bơm nước. Tuy nhiên, hoạt động chủ yếu của các tổ kỹ thuật là dịch vụ bơm tưới, làm đất và thu hoạch bằng thiết bị cơ giới; chưa phát triển nhiều về hoạt động dịch vụ gieo sạ, cuộn rơm, cắt rạ, cấy và chăm sóc. Đối với những vùng sản xuất lúa manh mún, nhỏ lẻ, thiết bị cơ giới của một số khâu còn hạn chế, khó khăn do thiếu điều kiện hạ tầng thực hiện, chi phí cao, hiệu quả thấp”.

Không riêng cây lúa mà việc áp dụng CGH vào cây ăn trái, mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt 3 tỷ USD trong năm vừa qua cũng chưa cao và không đồng đều giữa các địa phương. Trong sản xuất cây ăn trái, CGH mới chủ yếu tập trung vào khâu tưới nước, làm đất và một số khâu trong chăm sóc như phun thuốc và bón phân, phát cỏ bằng máy, chế biến và bảo quản sau thu hoạch chỉ khoảng 20%. Riêng việc bao trái, cắt, tỉa cành và thu hoạch trái cây hiện chủ yếu vẫn làm bằng tay.

Hạn chế cơ giới hóa trong khâu bảo quản sau thu hoạch ở Đồng bằng sông Cửu Long khiến tỷ lệ tổn thất chiếm hơn 10%. Điều đó dẫn đến hằng năm, khu vực này phải chịu thiệt hại khoảng 550 triệu đô la Mỹ. Trong ảnh: Nông dân phơi lúa sau thu hoạch ở huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

Gỡ khó cho cơ giới hóa

Khảo sát của Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh cho thấy, tỷ lệ hộ có máy kéo và máy nông nghiệp còn thấp, bình quân khoảng 50 hộ mới có một máy kéo, thấp hơn nhiều so với các nước. Các loại máy được sản xuất tại Việt Nam bao gồm cả chế tạo và lắp ráp chỉ chiếm khoảng 20%-30% thị trường, phần lớn là máy nhập khẩu của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Thương hiệu máy kéo trong nước chiếm thị phần khá hạn chế so với các thương hiệu của nước ngoài.

Hằng năm, lượng máy kéo nhập khẩu hơn 2.000 tỷ đồng, hơn 90% là máy kéo công suất trên 22 HP. Các cơ sở chế tạo máy nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu là xưởng cơ khí địa phương nhỏ lẻ, kỹ thuật thiết kế và công nghệ chế tạo hạn chế, các chi tiết máy chưa được tiêu chuẩn hóa và có chất lượng thấp. Hệ quả là làm tăng chi phí bảo trì, sửa chữa và giảm khả năng cạnh tranh.

Giá cao, sản phẩm chưa đa dạng. Vì thế, khoảng 80% máy móc, thiết bị thực hiện CGH trong sản xuất nông nghiệp là hàng nhập khẩu. Đây là một thực trạng cần giải quyết trong bài toán CGH nông nghiệp.

Ngoài phụ thuộc thiết bị nhập khẩu khiến giá thành cao, khó khăn hiện nay của ĐBSCL đó là CGH phát triển tự phát, chưa được tổ chức một cách đồng bộ. Phần lớn máy móc trang bị chủ yếu là cấp nông hộ, công suất nhỏ, thiếu sự quy hoạch vùng.

Sử dụng không hiệu quả, không hết công suất. Thiếu các hạ tầng để đồng bộ CGH. Ví dụ, quy hoạch đồng ruộng, đường sá trong vùng sản xuất vẫn chưa được quan tâm. Cùng với đó, việc số lượng thiết bị cơ giới tăng không đồng thuận với nhân lực ứng dụng CGH cũng là vấn đề gây khó cho chiến lược đồng bộ CGH.

Trình diễn thiết bị máy bay phun thuốc bảo vệ thực vật tại TP Cần Thơ. 

Theo PGS, TS Nguyễn Huy Bích, Phó trưởng khoa Cơ khí-Công nghệ thuộc Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh cho biết, trường có 57 năm đào tạo nhưng qua thống kê cho thấy số sinh viên theo học ngành cơ khí nông nghiệp là rất ít.

Trong suốt giai đoạn 2000-2015 thì năm 2010-2011, không một sinh viên nào theo học ngành cơ khí nông nghiệp, trong khi những năm trước đó cũng chỉ có 9-17 sinh viên theo học. Từ năm 2012 trở đi, sinh viên theo học ngành cơ khí nông nghiệp có tăng lên và đạt khoảng 70-80 sinh viên ở những năm 2015-2021, nhưng đây vẫn là con số còn khá khiêm tốn. Theo PGS, TS Nguyễn Huy Bích: “Cần phải làm tốt công tác hướng nghiệp, tuyển sinh ngành cơ khí nông nghiệp; có chính sách tổng thể về đào tạo và hệ thống kỹ thuật cho ngành cơ khí nông nghiệp. Nhân lực ứng dụng cho CGH được quan tâm đào tạo một cách bài bản thì CGH sẽ phát triển”.

Ở một khía cạnh khác, ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia cho rằng: “Với thực trạng đồng ruộng manh mún, điều kiện đầu tư hạn chế, nông dân không thể đầu tư hàng trăm triệu đồng mua máy móc về chỉ để sử dụng vài ngày mùa vụ. Để chiến lược phát triển CGH nông nghiệp đi vào thực tế, con đường nhanh nhất là hình thành các tổ chức, hợp tác xã làm dịch vụ và phải thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp”.

Liên quan đến chính sách, chủ trương, theo ông Lê Quốc Thanh, cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, tập trung vào huấn luyện đào tạo, tri thức hóa người nông dân. Khi bà con tích lũy đủ, tư duy đủ thì họ sẽ tự thay đổi. Bên cạnh đó, chính sách tín dụng cũng phải thông thoáng, thuận lợi để những người muốn làm dịch vụ CGH tiếp cận dễ hơn; thúc đẩy những đơn vị nghiên cứu để Việt hóa máy móc hiện đại nhập từ nước ngoài, tương thích đồng bộ với đồng ruộng Việt Nam.

Theo Quyết định số 858/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển CGH nông nghiệp và chế biến nông lâm thủy sản đến năm 2030: Trồng trọt đạt 70%; chăn nuôi đạt 60%; sản xuất thủy sản đạt 90% và đánh bắt, bảo quản là 95%; lâm nghiệp đạt 50% và diêm nghiệp đạt 90%. Phấn đấu đến năm 2030, đưa Việt Nam trở thành trung tâm chế biến nông sản đứng trong tốp 10 thế giới. 

Để đạt được mục tiêu CGH đồng bộ đến năm 2030 của nước ta, phải gắn CGH với tổ chức lại sản xuất, thay đổi CGH đồng bộ. Cùng với đó, xây dựng thể chế kết nối cung-cầu; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ và tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với trang bị máy móc; khuyến khích tạo động lực đào tạo nguồn nhân lực... góp phần nâng cao năng suất, chất lượng trong sản xuất. 

Bài và ảnh: THÚY AN