QĐND Online – Sáng 23-6, với 454 đại biểu tán thành (đạt 91,16% tổng số đại biểu Quốc hội) Quốc hội đã thông qua Luật Hải quan (sửa đổi). Luật gồm 8 chương, 104 điều.

Theo Luật được thông qua, hệ thống tổ chức của Hải quan Việt Nam gồm: Tổng cục Hải quan; cục hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; chi cục hải quan, đội kiểm soát hải quan và đơn vị tương đương. Chính phủ căn cứ vào khối lượng công việc, quy mô, tính chất hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, đặc thù, điều kiện kinh tế-xã hội của từng địa bàn để quy định tiêu chí thành lập cục hải quan; quy định cụ thể tổ chức, nhiệm vụ, hoạt động của hải quan các cấp.

Đại biểu Quốc hội bấm nút biểu quyết thông qua Luật Hải quan (sửa đổi). Ảnh: TTXVN

Trước khi thông qua, về thời hạn cơ quan hải quan làm thủ tục hải quan (Điều 23), có ý kiến đề nghị quy định rõ thời gian hoàn thành việc kiểm tra hàng hóa đối với hàng hóa thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành tại điểm b khoản 2. Với ý kiến này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, đối với hàng hóa thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành thì thời gian hoàn thành việc kiểm tra tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm, số lượng, khối lượng hàng hóa và quy trình kiểm tra. Thời hạn kiểm tra chuyên ngành đối với từng loại hàng hóa do các văn bản quy phạm pháp luật trong từng lĩnh vực điều chỉnh, vì vậy không thể quy định chung trong Luật Hải quan.

Cùng với đó, có ý kiến đề nghị xác định rõ tiêu chí về số lượng lớn, nhiều chủng loại và thế nào là kiểm tra phức tạp để thủ trưởng cơ quan hải quan nơi làm thủ tục hải quan quyết định việc gia hạn (đoạn 2 điểm b khoản 2 Điều 23). Đồng thời, cần quy định rõ số lần gia hạn, thời gian gia hạn tối đa để tránh thực hiện tùy tiện.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình: Theo danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thì các loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã. Mỗi loại hàng hóa có những tính chất, đặc điểm khác nhau nên không thể quy định tiêu chí cụ thể về số lượng, chủng loại, tính chất để áp dụng việc gia hạn đối với tất cả các loại hàng hóa mà cần giao trách nhiệm này cho Thủ trưởng cơ quan hải quan nơi làm thủ tục hải quan quyết định. Hơn nữa, khoản 1 Điều 19 đã quy định ràng buộc trách nhiệm của công chức hải quan trong việc “Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, quy trình nghiệp vụ hải quan và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình”; đồng thời điểm b khoản 2 Điều 23 cũng đã xác định thời gian gia hạn tối đa không quá 2 ngày. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ các nội dung này như dự thảo Luật.

Từ việc giải trình, tiếp thu, Điều 23 luật được thông qua quy định: Cơ quan hải quan tiếp nhận, đăng ký, kiểm tra hồ sơ hải quan ngay sau khi người khai hải quan nộp, xuất trình hồ sơ hải quan theo quy định của Luật này. Sau khi người khai hải quan thực hiện đầy đủ các yêu cầu để làm thủ tục hải quan, thời hạn công chức hải quan hoàn thành kiểm tra hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải được quy định như sau: Hoàn thành việc kiểm tra hồ sơ chậm nhất là 2 giờ làm việc, kể từ thời điểm cơ quan hải quan tiếp nhận đầy đủ hồ sơ hải quan; hoàn thành việc kiểm tra thực tế hàng hóa chậm nhất là 8 giờ làm việc, kể từ thời điểm người khai hải quan xuất trình đầy đủ hàng hoá cho cơ quan hải quan. Trường hợp hàng hoá thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành về chất lượng, y tế, văn hóa, kiểm dịch động vật, thực vật, an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật có liên quan thì thời hạn hoàn thành kiểm tra thực tế hàng hoá được tính từ thời điểm nhận được kết quả kiểm tra chuyên ngành theo quy định.

Trường hợp lô hàng có số lượng lớn, nhiều chủng loại hoặc việc kiểm tra phức tạp thì thủ trưởng cơ quan hải quan nơi làm thủ tục hải quan quyết định việc gia hạn thời gian kiểm tra thực tế hàng hóa, nhưng thời gian gia hạn tối đa không quá 2 ngày; việc kiểm tra phương tiện vận tải phải bảo đảm kịp thời việc xếp dỡ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, việc xuất cảnh, nhập cảnh của hành khách và bảo đảm việc kiểm tra, giám sát hải quan theo quy định.

Luật Hải quan (sửa đổi) cũng quy định, trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, cơ quan hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải để chủ động phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Trường hợp hàng hoá, phương tiện vận tải chưa đưa ra khỏi phạm vi địa bàn hoạt động hải quan mà cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện có hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới thì cơ quan, tổ chức, cá nhân đó báo ngay cho cơ quan hải quan để kiểm tra, xử lý.

Trường hợp có căn cứ xác định hàng hóa buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới, phương tiện vận tải chở hàng hóa buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới đang di chuyển từ địa bàn hoạt động hải quan ra ngoài địa bàn hoạt động hải quan thì cơ quan hải quan tiếp tục truy đuổi, thông báo cho cơ quan công an, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, quản lý thị trường trên địa bàn để phối hợp, đồng thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử lý theo quy định của pháp luật. Việc dừng, truy đuổi phương tiện vận tải nước ngoài đang đi trong vùng biển Việt Nam được thực hiện theo quy định của Luật Biển Việt Nam.

Trường hợp hàng hóa, phương tiện vận tải đã đưa ra ngoài phạm vi địa bàn hoạt động hải quan mà cơ quan Nhà nước hữu quan có căn cứ cho rằng, có hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới thì theo thẩm quyền, cơ quan đó thực hiện việc kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật; cơ quan hải quan có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan Nhà nước hữu quan thực hiện các biện pháp phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.

Luật Hải quan (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2015.

XUÂN DŨNG