QĐND Online - Sáng 3-11, trong khuôn khổ Dự án "Nghiên cứu khu vực doanh nghiệp" giai đoạn 2013-2014 do Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch (DANIDA) tài trợ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Tổng cục Thống kê (GSO) và Trường Đại học Copenhagen (UoC) phối hợp tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo "Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam: Kết quả điều tra năm 2013”.
 |
| Quang cảnh hội thảo. |
Trong khi những thông tin về sự thấp kém của năng suất lao động và công nghệ Việt Nam đang gây sốc cho không ít người, việc nghiên cứu, cho ra đời báo cáo về năng lực cạnh tranh và công nghệ được tích cực đón nhận.
Báo cáo tổng hợp các phát hiện từ cuộc Điều tra năng lực cạnh tranh và công nghệ năm 2013, cung cấp thông tin chi tiết về mức độ cạnh tranh, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo và TNXH của DN ở Việt Nam. Báo cáo có mẫu điều tra lớn gồm khoảng 8.000 quan sát và thông tin chi tiết ở cấp độ DN góp phần phản ánh cụ thể nhiều khía cạnh của môi trường kinh doanh.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng, cuộc điều tra cung cấp bộ công cụ rất có giá trị và độc đáo cho cả các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách. Cụ thể hơn, đây là cuộc điều tra duy nhất ở Việt Nam tìm hiểu sâu các vấn đề như sự phát triển năng lực công nghệ của DN, vai trò của đầu tư nước ngoài trong việc phổ biến các lợi thế công nghệ cho DN trong nước, rộng hơn là bối cảnh xã hội của môi trường kinh doanh.
Có thể thấy rõ từ kết quả điều tra, các DN nhận thức được lợi ích của việc đầu tư công nghệ và đã làm những gì họ có thể để nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, nhiều trở ngại đang tồn tại có thể cản trở DN đầu tư ở mức thu lại được lợi ích thực sự. Kết quả điều tra năm 2013 nhìn chung cũng tương tự như kết quả năm 2012. Điều này cho thấy môi trường kinh doanh và hoàn cảnh DN nói chung vẫn trong tình trạng trì trệ. Điều quan trọng ở đây là các chính sách phải được ban hành để hỗ trợ các DN phát triển. Đặc biệt, cần tập trung vào việc tháo gỡ dứt điểm những hạn chế được nêu chi tiết trong phân tích. Chính sách công nghiệp hiện tại dường như không đủ để đối phó với những vấn đề này.
Bằng chứng về lợi ích của đầu tư trực tiếp nước ngoài và mối quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp quốc tế cũng được phản ánh trong báo cáo. Sự tương tác giữa các DN trong và DN ngoài nước được kỳ vọng sẽ dẫn tới chuyển giao công nghệ thông qua tác động lan tỏa. Chuyển giao có thể xảy ra từ tác động lan tỏa ngang (tương tác giữa các DN hoạt động trong cùng lĩnh vực), liên kết ngược (trong mối quan hệ giữa các DN nước ngoài và các nhà cung cấp trong nước) và cuối cùng là từ liên kết xuôi, khi các DN nước ngoài cung cấp đầu vào trung gian cho các khách hàng trong nước. Báo cáo cho thấy chỉ một số lượng nhỏ các DN nhận được tác động lan tỏa và tác động lan tỏa xảy ra giữa các DN trong nước với nhau và trong tương tác của DN trong nước với DN nước ngoài. Mặc dù sự hiện diện của tác động lan tỏa giữa các DN trong nước là tích cực, nhưng không có dấu hiệu nào về chất lượng của chuyển nhượng, yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận DN. Dường như tác động lan tỏa từ các DN nước ngoài có chất lượng cao hơn so với DN trong nước. Điều quan trọng là các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc chi phí của việc thu hút FDI và những lợi ích mà DN trong nước nhận được, so với những lợi ích phát sinh từ sự tương tác giữa các DN hoàn toàn trong nước.
Một phương pháp khác để cải tiến công nghệ là điều chỉnh công nghệ mới. Có vẻ như các DN Việt Nam đầu tư vào nghiên cứu và triển khai (R&D) chủ yếu nhằm phát triển các công nghệ đã có sẵn ở nơi khác. Do xác suất thất bại cao của R&D và chi phí tốn kém, có thể sẽ có lợi hơn cho các DN khi tiếp nhận và điều chỉnh công nghệ sẵn có thay vì đầu tư vào R&D. Điều chỉnh công nghệ cũng có thể mang lại nhiều lợi ích hơn là nhận chuyển giao, do DN có thể tìm công nghệ phù hợp với điều kiện của mình, trong khi nhận chuyển giao bị giới hạn bởi trình độ công nghệ của DN chuyển giao và việc chuyển giao có thể còn không xảy ra. Do năng suất tăng lên nhờ điều chỉnh công nghệ, các chính sách để thúc đẩy loại hình đầu tư này cần được xem xét nghiêm túc và nên bao gồm việc gỡ khó cho DN.
Cuối cùng, khi nền kinh tế Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn, áp lực có thể gia tăng lên các DN khiến họ giảm bớt cam kết trách nhiệm xã hội (TNXH) nhằm theo đuổi lợi nhuận cao hơn. TNXH của DN ở Việt Nam hiện nay hầu như mới để đáp ứng các nghĩa vụ trong DN và phù hợp với những yêu cầu pháp lý bắt buộc. Cần chú ý rằng lợi ích từ TNXH gần như chỉ xuất hiện trong các công ty áp dụng chiến lược TNXH rộng hơn và có sự tương tác tới cộng đồng bên ngoài và các bên liên quan khác. Do đó sẽ khó mong đợi các lợi ích cụ thể cho DN Việt Nam từ chính sách TNXH hiện tại của họ. Chính sách hỗ trợ chiến lược TNXH "trên mức tuân thủ" có khả năng giúp cải thiện điều này.
Các chuyên gia tham gia hội thảo đều đánh giá cao chủ đề, nội dung của báo cáo và đều khẳng định sự cần thiết hơn bao giờ hết về nâng cao năng suất lao động và công nghệ với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Các chuyên gia cũng cho rằng cần có hệ thống chính sách đồng bộ hơn về công nghệ và nâng cao năng suất lao động vì thực tế trong thời gian vừa qua, có tình trạng gỡ được vấn đề này lại ảnh hưởng đến vấn đề kia. Cùng với đó cần nghiên cứu để chỉ ra những nguyên nhân khiến việc nâng cao công nghệ và năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian vừa qua chưa được cao.
Tin, ảnh: XUÂN DŨNG