Phải biết suy nghĩ mới từ những bài học cũ
Trong số báo trước, Báo Quân đội nhân dân Điện tử đã ghi nhận ý kiến, khuyến nghị của nhiều chuyên gia kinh tế về việc phải vượt bão Covid-19 bằng bản lĩnh, tầm nhìn, cách làm của Việt Nam, không thể sao chép máy móc công thức của một quốc gia nào.
Trong số báo này, theo các chuyên gia và nhà quản lý, doanh nghiệp, "ôn cố để tri tân", nhìn kỹ hơn bài học "vượt bão" qua một số lần khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, nhận diện rõ sức khỏe của nền kinh tế đất nước hiện nay chính là cách để tạo ra được "sức đề kháng" và xa hơn là tạo "hệ miễn dịch" trước những thách thức suy thoái và tác động an ninh phi truyền thống.
Tại phiên họp Bộ Chính trị gần đây, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói rằng, dù khó dự đoán chính xác thời gian đại dịch kết thúc, “ngày nào cũng chỉ thấy thông tin về dịch bệnh” nhưng “đừng sợ quá mà không dám làm việc gì khác”. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc báo cáo rằng, Chính phủ dốc sức tổng tấn công để đưa cuộc sống trở về nhịp bình thường, xác định vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất đúng như thời chiến, tuyệt đối không để nền kinh tế “đóng băng”.
 |
Thực trạng dòng vốn ngoại và GDP của Việt Nam từ 1986-2014. Nguồn: tapchinganhang.com.vn |
Đó là quyết tâm chính trị đúng đắn nhưng chỉ quyết tâm không chưa đủ, phải có cách làm, cách nghĩ sáng tạo, không ngừng suy nghĩ mới từ những bài học cũ. Chúng ta đều biết rằng, đây không phải là cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên. Cuộc khủng hoảng những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ những năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ bùng phát vào cuối 2008. Đứng trước tình hình trên, Việt Nam đã linh hoạt chuyển đổi mục tiêu ưu tiên; áp dụng các biện pháp phù hợp; có giải pháp xử lý kịp thời các hiệu ứng phụ; chọn nông nghiệp, nông thôn làm trọng điểm; kết hợp giữa nội lực và ngoại lực; kết hợp sử dụng biện pháp cơ bản và biện pháp tình thế; kết hợp sử dụng “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô hình” của Nhà nước…
Chuyên gia kinh tế, TS Nguyễn Minh Phong, người từng có nhiều bài viết, bài trả lời phỏng vấn báo chí về các cuộc khủng hoảng, suy giảm kinh tế trước đây nhận xét: Các cuộc khủng hoảng kinh tế trên đều có chung nguyên nhân là vi phạm các “luật chơi” và kỳ vọng cực đoan. Tuy nhiên, cả 3 cuộc khủng hoảng đều cho thấy sự bình tĩnh, tự tin, năng động và sáng tạo sẽ cho phép Việt Nam tìm ra lời giải tối ưu. Nhờ vậy, Việt Nam đã không bị chìm vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế lần này là khủng hoảng “chưa từng có’' với nhân loại, do đó bên cạnh những kinh nghiệm “vượt bão” trước đây đòi hỏi các giải pháp chưa từng có. Phải nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo, phản biện và chủ động các phương án và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng...
Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân Điện tử, chuyên gia kinh tế, TS Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nguyên Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương nhận định: “Qua mỗi cuộc khủng hoảng, chịu những tác động lớn đến nền kinh tế, nền kinh tế Việt Nam có thêm “sức đề kháng”. Chúng ta đều rút ra những bài học rất bổ ích. Đó là phải chủ động phán đoán để có quyết định kịp thời. Trong khi nhiều nước chưa xác định được đúng tình hình, Việt Nam đã rất chủ động từ phòng ngừa, khoanh vùng, dập dịch và giải quyết những vấn đề một cách toàn diện từ kinh tế, văn hóa, đời sống xã hội”.
 |
TS. Cao Sỹ Kiêm. Ảnh: Hoàng Lực. |
Bài học tiếp theo được áp dụng hiệu quả trong thời điểm này là sự tập trung mạnh mẽ các nguồn lực. Chính phủ có nhiều biện pháp chỉ đạo, sẵn sàng tập trung tài chính vào những nơi thiết yếu. Điều này không chỉ giải quyết trước mắt mà còn là sự chuẩn bị cho lâu dài sau này.
Có thể thấy, yếu tố ổn định là yếu tố quan trọng nhất, khi đời sống người dân được ổn định, họ sẽ ủng hộ và thực hiện nghiêm các giải pháp, chủ trương của Chính phủ. Nếu ko có sự ủng hộ này thì trong mọi tình huống dù chủ trương đúng, giải pháp đúng thì kết quả thực hiện không hiệu quả. Ở một số thời điểm, sự lơ là chủ quan của người dân khiến dịch bệnh lây lan, ảnh hưởng rất lớn đến nỗ lực phòng, chống dịch của Chính phủ, của toàn dân, TS Cao Sỹ Kiêm nêu ví dụ.
Sóng gió nền suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 đã tạo hệ lụy kéo dài đến tận những năm 2011-2013 khi nền kinh tế nước nhà, nhất là ở các đô thị lớn từng có lúc, có nơi dính vào câu chuyện “bong bóng bất động sản”. Đó cũng là bài học cần có giải pháp không để lặp lại những kịch bản đen tối đó. Theo chuyên gia kinh tế, TS Đinh Thế Hiển, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tin học và Kinh tế, Việt Nam chưa từng gặp khó khăn như thế này, trước đây, khó khăn kinh tế tại Việt Nam chỉ ảnh hưởng cục bộ. Kể cả năm 2011-2012, tín dụng tăng mạnh, khó khăn cũng chủ yếu do chính sách tiền tệ trong nước, đầu tư tăng trưởng tín dụng quá mức chứ không phải do khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Hồi khủng hoảng năm 2008, những yếu tố kinh tế thị trường ở Việt Nam chưa hội nhập, vẫn chủ yếu dựa vào nội địa, trong khi nội địa khi đó còn nhiều dư địa phát triển về hạ tầng, đường sá, phát triển đô thị, giao thương hàng hóa trong nước… Còn bây giờ, khó khăn đến từ kinh tế toàn cầu tác động ngược lại nội địa, tác động sâu hơn, nguy hiểm hơn nếu đại dịch Covid-19 kéo dài. Kinh tế Việt Nam hội nhập khá sâu với toàn cầu, nền kinh tế gắn chặt với kinh tế thế giới, nên khi bị tác động thì tất cả các lĩnh vực từ xuất nhập khẩu đến nội địa đều bị ảnh hưởng nên khó khăn nhiều hơn.
Kịch bản đóng băng của thị trường bất động sản có thể xảy ra do tác động của dịch Covid-19 đã khiến ám ảnh về cuộc khủng hoảng chạm đáy của thị trường bất động sản năm 2011-2013 xuất hiện. Sự "đổ vỡ domino” của thị trường bất động sản đã kéo theo sự tê liệt của nền kinh tế trong giai đoạn cách đây gần một thập kỷ. Kịch bản hoàn toàn có thể lặp lại ở thời điểm hiện nay. Vì vậy, nếu không quan tâm doanh nghiệp bất động sản như giãn nợ… thì khoản vay sẽ chuyển nhanh thành nợ xấu. “Cục máu đông” đó sẽ tạo ra nhiều hệ lụy.
 |
Chuyên gia kinh tế, TS Vũ Đình Ánh. Nguồn: nhadautu.vn |
Trong các chuyên gia kinh tế, hiện cũng có người đề xuất những giải pháp rất riêng biệt. Chuyên gia kinh tế, TS Vũ Đình Ánh thì cho rằng, nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng lần này khác rất nhiều so với hai cuộc khủng hoảng gần đây nhất. Nếu chúng ta chỉ áp dụng những gói hỗ trợ và biện pháp kích cầu, bao gồm: Giảm thuế, hạ lãi suất, bơm tiền ra thị trường… như đã áp dụng trong hai lần trước đó sẽ là không phù hợp. Vì thế, theo ông, chìa khoá giải quyết khó khăn cho kinh tế Việt Nam lúc này không phải chỉ là các biện pháp kích cầu mà cần tìm nguồn cung thay thế và giảm phụ thuộc vào nguồn cung nguyên liệu sản xuất từ thị trường Trung Quốc thông qua gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, tăng cường hỗ trợ các ngành công nghiệp phụ trợ. Cùng với đó là quan tâm là tìm đầu ra tiêu thụ sản phẩm mà trước hết tập trung phát triển thị trường tiêu thụ trong nước.
Với đối tượng mất việc làm, bị giảm hoặc mất thu nhập, chủ yếu ở nhóm chịu nhiều tác động của Covid-19 như du lịch, khách sạn, dịch vụ... cần được tạo cơ hội, điều kiện để tìm kiếm thu nhập khác thông qua dịch chuyển công việc tạm thời. Chính phủ cần tính tới bài toán chuyển dịch cơ cấu lao động. Lao động tại các khu vực chịu nhiều tác động như du lịch, khách sạn, dịch vụ cần được tạo điều kiện để có thu nhập khác thông qua dịch chuyển công việc tạm thời. Sau đó, gắn chương trình chuyển dịch lao động với kế hoạch chuyển dịch cơ cấu lao động dài hạn gắn với có chính sách đào tạo và đào tạo lại cho lao động có nhu cầu trong thời gian thất nghiệp để họ có cơ hội việc làm tốt hơn sau khi hết dịch…
Kích cầu cần như thế nào?
Nhớ lại bài học từ việc thực thi gói hỗ trợ lãi suất 1 tỷ USD vào năm 2009, chuyên gia tài chính Cao Sỹ Kiêm khuyến nghị, phải thận trọng khi tung tiền ra nền kinh tế. “Kích cầu, đầu tư nhưng nếu không vào đúng chỗ, không kịp thời, không có phương pháp tốt thì không chỉ tổn hại nguồn lực mà còn làm hư hỏng đội ngũ cán bộ. Nên bài học luôn luôn nhớ và thực hiện nghiêm túc là khâu tổ chức thực hiện, kỷ luật, kỷ cương, cơ chế thực hiện”, TS Cao Sỹ Kiêm nhấn mạnh.
Bên cạnh những tác động tích cực trên, sự lạm dụng và sử dụng không hiệu quả các gói kích cầu sẽ có thể gây ra một số hậu quả, chẳng hạn, khi các dự án vay đầu tư có chất lượng thấp hoặc triển khai kém, giải ngân không đúng mục đích, sẽ làm thất thoát, lãng phí các nguồn vốn vay, gia tăng gánh nặng nợ nần và các hiện tượng “đầu cơ nóng” gây hệ quả xấu cho cả Chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng và xã hội nói chung.
Sử dụng không hiệu quả các gói kích cầu sẽ làm tổn hại đến sức cạnh tranh của nền kinh tế nếu việc cho vay thiên về quy mô và thành tích (tức là góp phần níu kéo, duy trì cơ cấu kinh tế, cũng như cơ cấu sản phẩm và thị trường kinh doanh lạc hậu, kém hiệu quả) đồng thời, làm gia tăng hoặc kéo dài tình trạng bất bình đẳng thị trường giữa các loại hình doanh nghiệp, khu vực kinh tế và các địa phương nếu không tuân thủ tốt các nguyên tắc minh bạch và bình đẳng trong triển khai các gói kích cầu.
Đặc biệt, về trung hạn, nếu kéo dài quá lâu “liệu pháp kích cầu” và sử dụng không hiệu quả gói kích cầu có thể khiến gia tăng tích tụ về mất cân đối hàng - tiền và vi phạm nghiêm trọng quy luật lưu thông tiền tệ.
 |
TS Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. |
Trả lời phỏng vấn của Báo Quân đội nhân dân Điện tử, TS Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nêu quan điểm, khối ngân hàng đang triển khai gói tín dụng 285.000 tỉ đồng hỗ trợ doanh nghiệp là rất đáng quý nhưng khoản tiền này sẽ là không đủ nếu ai đó có ý định ỷ lại và trục lợi, vì thế các doanh nghiệp cần từ bỏ suy nghĩ trên và hướng tới lợi ích chung của đất nước. Các doanh nghiệp thực sự cần hỗ trợ phải chú trọng vào tương tác 2 chiều, tức là đưa ra những khó khăn phải đúng và minh bạch để ngân hàng nhìn thấy, từ đó mới nhận được hỗ trợ của Nhà nước.
TS Cao Sỹ Kiêm cũng nhấn mạnh việc dùng cơ chế chính sách kiến tạo đầu tư, phát triển, tạo công ăn việc làm chứ không trao vật chất một cách đơn thuần, không tái tạo được. Bài học cho cần câu chứ không cho con cá vẫn luôn luôn đúng. Chính Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cũng đã nhấn mạnh rằng, việc hỗ trợ cho những doanh nghiệp, các đối tượng bị thiệt hại bởi dịch Covid-19 là nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chứ không phải là bao cấp cho sự yếu kém. Một khi đồng tiền sử dụng sai mục đích, kém hiệu quả, thì hệ lụy tới nền kinh tế là không hề nhỏ.
Tái cơ cấu hiệu quả sẽ tạo "sức đề kháng" và “hệ miễn dịch”
Trong những phát biểu gần đây khi tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, các chuyên gia kinh tế đã ghi nhận và tìm thấy nhiều giải pháp thật sự bắt nguồn từ trăn trở thực tiễn của không ít “tư lệnh ngành”. Đã bớt đi nhiều những tiếng nói “tăng cường”, “đẩy mạnh”, “nâng cao” mà thay vào đó phải là những việc cần làm ngay.
 |
Nhiều sản phẩm Việt có chỗ đứng chắc chắn trong thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. |
Khi bàn về các giải pháp phát triển, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng đã nhấn mạnh, đại dịch Covid-19 tạo ra cơ hội trăm năm cho chuyển đổi số quốc gia. Các hoạt động kinh tế-xã hội bị ngưng trệ theo cách cũ. Tất cả chúng ta sẽ phải sáng tạo ra những cách vận hành mới để cho cuộc sống vẫn tiếp diễn, học tập, làm việc và giải trí vẫn phải được tiếp tục.
Thật vậy, dịch bệnh lây lan là do tiếp xúc. Đây là cơ hội xuất hiện trong tình huống khó khăn để đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số, phát triển dịch vụ công trực tuyến, y tế số, giáo dục số, thanh toán không dùng tiền mặt, thương mại điện tử và kinh tế số. Đây cũng là cơ hội hướng dẫn, từng bước phổ cập kỹ năng số cho đông đảo người dân, là lực lượng chính sử dụng các dịch vụ Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số trong tương lai. Cho nên, chỉ riêng qua tái cơ cấu để có một nền kinh tế số, chúng ta sẽ tạo ra thêm một sức mạnh to lớn cho nền kinh tế.
Đúng như lời ông Nguyễn Mạnh Hùng, dịch bệnh cũng là cơ hội để thay đổi tư duy, cách làm việc. Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, Bộ đã tạo nhóm liên kết (nhóm trên ứng dụng viber và zalo) các tham tán thương mại, các Vụ thị trường nước ngoài, Cục Xuất nhập khẩu, hiệp hội ngành hàng, Trung tâm xúc tiến thương mại địa phương và các doanh nghiệp trên cả nước nhằm kết nối, nắm bắt nhu cầu hỗ trợ doanh nghiệp xuất nhập khẩu cả nước nhanh và hiệu quả nhất.
 |
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh. Ảnh: TTXVN |
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã có nhiều chỉ đạo cho thấy ông sớm nhận ra khiếm khuyết, lỗ hổng lớn của nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập sâu rộng chuỗi giá trị toàn cầu bị ảnh hưởng mạnh do Covid-19 như thế nào. Không chỉ là những thông điệp sát sao như “sẽ lên Lạng Sơn trao đổi với nước bạn bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nông sản xuất khẩu”, Bộ Công Thương đã và đang có nhiều giải pháp thể hiện tầm nhìn xa hơn.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho rằng, hiện nhiều hàng hóa và sản phẩm của các quốc gia đã gắn bó chặt chẽ trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chính vì vậy khi dịch bệnh lan rộng, tính tương tác phụ thuộc giữa các nền kinh tế cũng bộc lộ một cách rõ rệt. Cho nên, ngành công thương phải làm tốt công tác phân tích, dự báo đồng thời xây dựng các đối sách để ứng phó kịp thời và hiệu quả.
Cụ thể, cần đánh giá có bao nhiêu doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng để đo lường mức độ tác động trong từng quý, thậm chí khi dịch bệnh có thể diễn biến phức tạp, kéo dài thì khả năng chống đỡ với khó khăn sẽ ra sao? Trong khu vực công nghiệp hỗ trợ, ngành công thương đang tập trung tái cơ cấu các chuỗi liên kết để phục vụ cho sản xuất công nghiệp, đặc biệt một số ngành công nghiệp chế biến chế tạo lớn của ta như dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ... theo hướng bền vững hơn với một số đối tác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ... nhằm tránh phụ thuộc quá lớn vào một hoặc một số ít đối tác hay thị trường.
 |
Dây chuyền sản xuất ô tô của VinFast. |
Chậm là chết, giờ là lúc phải thay đổi, kể cả với ngành truyền thống lâu đời như ngành nông nghiệp. Giờ đây phải trở thành nghề đòi hỏi chuyên môn cao, kỹ năng hiện đại, vận dụng công nghệ sinh học, tưới tiêu hiện đại, áp dụng kinh tế số hóa, thương mại điện tử, am hiểu ngoại ngữ, kinh tế đối ngoại…Dịch Covid-19 và trước đó là dịch tả lợn châu Phi đã “tàn phá” ngành nông nghiệp nhưng qua đây càng thể hiện rõ những điểm yếu cố hữu là chuỗi tiêu thụ, chế biến sâu và sự phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường xuất khẩu. Trong đó, Trung Quốc là thị trường lớn, chiếm 24% giá trị trong tổng số lượng hàng nông, lâm, thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu ra thế giới. Theo TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Những biện pháp “giải cứu” chỉ là trước mắt, về dài hạn cần làm căn cơ như đa dạng hóa thị trường, xây dựng chuỗi giá trị từ nơi sản xuất đến tiêu thụ cuối cùng, chuyển sản xuất manh mún sang quy mô lớn… Tất cả đều là những vấn đề đã được ngành nông nghiệp nhắc đến rất nhiều mà chưa làm được. Thời điểm này là cơ hội để quyết liệt thực hiện cho được tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang có hướng đi đúng khi cơ cấu lại một số sản phẩm nông sản xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, xuất ra nhiều thị trường thế giới như vải Bắc Giang, tôm Bạc Liêu… Nhưng như với dưa hấu của tỉnh Bình Định, Bộ đã đề nghị địa phương chuyển đổi sang trồng cỏ phục vụ chăn nuôi bò, thực tế cũng rất cần nguồn cỏ chăn nuôi, trong khi dưa hấu nhiều năm qua đều rơi vào tình cảnh phải kêu gọi giải cứu. Giảm bớt dần những mặt hàng rủi ro cao, phải giải cứu nhiều là cần thiết. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường nhìn nhận: Những địa phương hay mặt hàng nào chưa hình thành được chuỗi sản xuất thì hết khó khăn này cũng sẽ phải đối mặt những sự cố khác. Do vậy, các địa phương phải cùng doanh nghiệp hướng dẫn, định hướng nông dân tổ chức sản xuất hiệu quả, hình thành các hợp tác xã. Mọi khâu, công đoạn đều cần sự đồng hành, sản xuất có trách nhiệm bằng việc gắn kết, liên kết với doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất lớn, chuỗi giá trị sâu...
Một nghiên cứu cho biết, trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, ngành nghề được tự động hóa nhiều nhất là ô tô và sản xuất. Còn với khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra, ngành dịch vụ thực phẩm và ăn ở chịu nhiều áp lực. Trong nguy có cơ, rõ ràng dịch bệnh cũng cơ hội để chúng ta nhìn lại và đi tới, tái cơ cấu cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ Việt Nam theo cách làm mới, hướng đi mới bền vững hơn.
(Còn nữa)
NHÓM PHÓNG VIÊN BÁO QĐND ĐIỆN TỬ