Tuy nhiên, hiện nay, một số quy định đã không còn phù hợp, cần sửa đổi. Trang Ý kiến chiến sĩ chia sẻ một số ý kiến xung quanh vấn đề này.

Đại tá NGUYỄN TRUNG HIẾU, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320, Quân đoàn 34:

Bảo đảm tốt hơn đời sống bộ đội

Qua gần 10 năm triển khai thực hiện Nghị định 76, chất lượng bảo đảm hậu cần, đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 320 được nâng lên rõ rệt. Cụ thể là quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn bảo đảm; duy trì tốt dự trữ tại chỗ; chủ động tăng gia sản xuất góp phần cải thiện đời sống bộ đội, nhất là trong điều kiện huấn luyện dã ngoại, cơ động dài ngày.

Công tác bảo quản, chế biến thực phẩm được thực hiện nền nếp, an toàn, hiệu quả; giá các sản phẩm tự làm luôn thấp hơn 10-20% so với giá thị trường. Nhờ đó, đời sống bộ đội cơ bản ổn định, sức khỏe được bảo đảm. Sư đoàn thường xuyên bảo đảm tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bộ đội, khám sức khỏe định kỳ cho các đối tượng đúng kế hoạch, giúp phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh lý; 4/8 trường hợp được hỗ trợ vô sinh, hiếm muộn đã có con, tạo niềm vui, niềm hạnh phúc lớn cho gia đình...

Kiểm tra công tác bảo đảm hậu cần cho tàu làm nhiệm vụ xuất phát nhanh tại Lữ đoàn 955, Vùng 4 Hải quân. Ảnh: LÊ QUYỀN 

Những kết quả này đã trực tiếp góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) của Sư đoàn 320, củng cố niềm tin và sự gắn bó của bộ đội với đơn vị.

So với gần 10 năm trước, điều kiện kinh tế, giá cả hàng hóa có nhiều biến động; dịch bệnh trên người và gia súc, gia cầm diễn biến khó lường; trang thiết bị phục vụ cho chiến đấu, công tác và sinh hoạt ngày càng hiện đại... Vì vậy, khả năng kinh phí bảo đảm so với nhu cầu theo quy định tại Nghị định 76 gặp nhiều khó khăn, có nội dung chưa phù hợp. Do đó, Sư đoàn 320 kiến nghị trang bị đồng bộ, thống nhất hệ thống bếp nấu ăn bảo đảm chất lượng, an toàn; nâng mức điều trị vô sinh, hiếm muộn phù hợp với công tác khám, điều trị của các cơ sở y tế ngoài Quân đội; quan tâm đầu tư cho hệ thống kho, trạm dự trữ SSCĐ cũng như cấp phát và hệ thống phòng, chống cháy nổ kho, trạm...

----------

Thượng tá TRẦN THANH ĐIỀN, Phó sư đoàn trưởng Sư đoàn 330, Quân khu 9:

Cần nâng tiêu chuẩn vật chất hậu cần

Nghị định 76 giúp bảo đảm đầy đủ, kịp thời các chế độ, tiêu chuẩn vật chất hậu cần cho bộ đội; quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, trang bị hậu cần, góp phần nâng cao sức khỏe, khả năng SSCĐ và tinh thần của bộ đội. Tuy nhiên, một số tiêu chuẩn vật chất hậu cần theo quy định này chưa được điều chỉnh, bổ sung kịp thời để phù hợp với thực tiễn và nhu cầu phát triển của Quân đội.

Theo tôi, cần nâng tiêu chuẩn bảo đảm quân phục thường xuyên (mùa hè) đối với sĩ quan, QNCN lên 2 bộ/người/năm để quần, áo được thống nhất cùng năm sản xuất và đồng đều về màu sắc; tiêu chuẩn quần lót, áo lót, khăn mặt của của sĩ quan, QNCN từ 2 cái/năm lên 3 cái/năm, bằng tiêu chuẩn của hạ sĩ quan, binh sĩ; quy định tiêu chuẩn trang thiết bị trạm chế biến tập trung để bảo đảm tính chính quy, thống nhất...

Đồng thời, cần điều chỉnh định mức kinh phí khám sức khỏe định kỳ phù hợp với mức giá hóa chất, sinh phẩm xét nghiệm trên thị trường. Tăng mức hỗ trợ điều trị vô sinh, hiếm muộn cho quân nhân làm việc trong môi trường độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm từ 50 triệu đồng/lần lên 75 triệu đồng/lần vì hiện nay, các bệnh viện sử dụng các kỹ thuật cao trong điều trị, chi phí tăng cao, thời gian điều trị một lần kéo dài và mở rộng đối tượng hỗ trợ (vợ hoặc chồng).

Thống nhất quy định thiết kế mẫu cho từng loại công trình doanh trại (sở chỉ huy, trung tâm chỉ huy, nhà ở bộ đội, nhà ăn, khu sinh hoạt văn hóa-thể thao...) làm cơ sở để các đơn vị triển khai xây dựng, cải tạo, bảo đảm đồng bộ, hiện đại; điều chỉnh tăng định mức sử dụng điện...

----------

Thượng tá TRẦN TRUNG NGUYÊN, Chủ nhiệm Hậu cần-Kỹ thuật, Bộ CHQS tỉnh Lào Cai:

Nhiều nội dung cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn

Bộ CHQS tỉnh Lào Cai đạt được một số kết quả nổi bật trong thực hiện Nghị định 76 như: Ngành hậu cần duy trì bảo đảm quân nhu đầy đủ, đúng, kịp thời; khẩu phần ăn đạt hơn 3.200 Kcal/người/ngày; 100% bếp ăn đạt tiêu chuẩn “nuôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt”. Công tác quân y triển khai đồng bộ, tỷ lệ quân số khỏe thường xuyên đạt hơn 99%, không để dịch bệnh lây lan vào đơn vị; nhiều trường hợp vô sinh, hiếm muộn được hỗ trợ điều trị theo quy định. Doanh trại ngày càng chính quy, khang trang, xanh-sạch-đẹp. Công tác xăng dầu được quản lý, cấp phát an toàn, tiết kiệm.

Bên cạnh kết quả đạt được, Nghị định 76 cũng bộc lộ một số điểm cần tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh như: Tiêu chuẩn ăn cơ bản phù hợp nhưng có sự chưa thống nhất giữa Nghị định 76 và các thông tư mới của Bộ Quốc phòng, gây khó khăn trong dự toán và cấp phát. Một số mặt hàng quân trang chưa kịp thời, chất lượng còn hạn chế, nhanh bạc màu, dễ hư hỏng, chưa bảo đảm niên hạn sử dụng. Kinh phí bảo đảm quân y còn thấp so với thực tế, đặc biệt là chi phí hỗ trợ điều trị vô sinh, hiếm muộn, trong khi giá thuốc và vật tư y tế ngày càng tăng. Doanh trại tuy đã được củng cố, song vẫn thiếu hệ thống xử lý rác thải, nước thải tập trung; định mức điện, nước cấp chưa phù hợp với nhu cầu thực tế.

Nguyên nhân chủ yếu là do giá cả thị trường biến động, ngân sách còn hạn chế, một số quy định chưa được cập nhật, bổ sung kịp thời. Đặc thù khí hậu, địa hình vùng núi, biên giới của tỉnh Lào Cai cũng là nguyên nhân gây khó khăn. Những bất cập này ít nhiều tác động đến chất lượng bảo đảm đời sống bộ đội, gây áp lực trong công tác tham mưu, tổ chức thực hiện ở đơn vị cơ sở.

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị định 76 trong thời gian tới, theo tôi cần thống nhất định lượng ăn của hạ sĩ quan, binh sĩ bộ binh theo Thông tư số 96/2025/TT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; tăng số lượng một số mặt hàng quân trang sử dụng thường xuyên từ 3 lên 4 cái/năm; bổ sung điều chỉnh quân trang sĩ quan, QNCN phù hợp với thực tiễn. Nâng mức hỗ trợ điều trị vô sinh, hiếm muộn; điều chỉnh chi phí khám sức khỏe định kỳ sát với giá thị trường; bổ sung trang thiết bị y tế, tăng định mức thuốc, đặc biệt là thuốc đặc trị. Bố trí kinh phí đầu tư hệ thống xử lý rác thải, nước thải; bổ sung định mức điện, nước phù hợp với nhu cầu sử dụng hiện nay. Có cơ chế linh hoạt trong phân bổ ngân sách, ưu tiên cho đơn vị vùng núi, biên giới, khí hậu khắc nghiệt, địa bàn chiến lược.

----------

Trung tá TRẦN THANH SƠN, Chủ nhiệm Hậu cần-Kỹ thuật, Lữ đoàn 955, Vùng 4 Hải quân:

Cần tăng một số định mức

Tiêu chuẩn hậu cần theo Nghị định 76 và các quy định liên quan được Lữ đoàn 955 bảo đảm đầy đủ cho các đối tượng. Nhờ vậy, cán bộ, chiến sĩ đơn vị luôn đoàn kết, yên tâm công tác, SSCĐ cao. Đáng chú ý là từ năm 2018 tới nay, Lữ đoàn hướng dẫn và hoàn thiện hồ sơ đề nghị cơ quan cấp trên hỗ trợ chi phí cho 14/26 đợt điều trị vô sinh, hiếm muộn của quân nhân với tổng số tiền 700 triệu đồng. Đã có 10/12 quân nhân có con, còn 2 quân nhân đang tiếp tục điều trị.

Từ thực tiễn yêu cầu nhiệm vụ, chúng tôi thấy một số tiêu chuẩn vật chất hậu cần đối với bộ đội chưa phù hợp và có kiến nghị, đề xuất như sau: Về bảo đảm quân nhu, cần sửa đổi, bổ sung Điều 5 Nghị định 76 theo hướng tăng thêm tiêu chuẩn thường xuyên (quần đùi, áo lót, dép rọ) cho tất cả các đối tượng; tăng thêm 1 bộ quân phục dã chiến nghiệp vụ tàu. Ngoài ra, cần tăng tiêu chuẩn thuốc, bông băng, hóa chất cho các đối tượng; tăng mức hỗ trợ kinh phí điều trị vô sinh, hiếm muộn.

Về bảo đảm doanh trại, cần sửa đổi khoản 2, Điều 14 theo hướng tăng tiêu chuẩn doanh cụ cho các đối tượng bảo đảm cho làm việc, sinh hoạt (tăng diện tích tủ áo đối với sĩ quan; hạ sĩ quan, binh sĩ có tiêu chuẩn tủ cá nhân hoặc 1/2 tủ áo sĩ quan) để làm tốt công tác xây dựng nền nếp chính quy trong Quân đội. Sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 15 và khoản 1, Điều 16 theo hướng tăng định mức sử dụng điện năng sinh hoạt, làm việc cho các đối tượng; định mức sửa chữa các công trình điện, nước được bảo đảm bằng tiền lên 20-25% để sửa chữa, cải tạo hệ thống điện đáp ứng công suất điện của các trang thiết bị mới, nâng cao chất lượng nước sạch sinh hoạt, bảo đảm an toàn, tránh thất thoát, lãng phí.