1. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943)-văn kiện mang tầm cương lĩnh đầu tiên về con đường phát triển văn hóa cách mạng, đã được xác lập như kim chỉ nam cho mọi hoạt động văn hóa trong kháng chiến cũng như kiến quốc.
 |
Tiết mục nghệ thuật trong Chương trình "Việt Nam khát vọng vươn xa". Ảnh: NHẬT KHANG
|
Trong kháng chiến chống Pháp và sau này là chống Mỹ, văn hóa là vũ khí tinh thần sắc bén không thể thiếu. Những áng văn chương cách mạng, những hành khúc hào hùng... trở thành sức mạnh hiệu triệu đoàn kết, kiên cường. Trên mọi mặt trận, từ vùng đồng bằng đến rừng núi, từ miền xuôi đến miền ngược, văn hóa bám đất, bám dân, lan tỏa tinh thần yêu nước, lý tưởng độc lập-tự do. Trong suốt hành trình giành và giữ nước, văn hóa không bị “cách mạng hóa” theo kiểu cứng nhắc, khô khan, mà luôn dung hòa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại. Những nghệ sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ thời đó không chỉ là người sáng tác mà còn là người truyền lửa, người giữ lửa-làm nên một nền văn hóa cách mạng đậm đà bản sắc dân tộc mà vẫn thấm nhuần tinh thần thời đại.
Khi đất nước giành được độc lập, điều đầu tiên mà lãnh tụ Hồ Chí Minh nhấn mạnh không phải là quyền lực, mà là “quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do”-tức là quyền làm người trọn vẹn cả về thể xác lẫn tinh thần, về vật chất lẫn văn hóa. Người khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”-không phải là một khẩu hiệu nhất thời, mà là một triết lý phát triển bền vững từ gốc rễ.
Văn hóa trong hành trình giành và giữ độc lập, vì vậy, không chỉ là phương tiện phục vụ kháng chiến mà còn là cốt lõi làm nên bản lĩnh dân tộc, tạo ra một nền độc lập không bị “rơi rụng” giữa dòng chảy toàn cầu. Chính sức mạnh văn hóa ấy đã khiến Việt Nam-một dân tộc nhỏ về địa lý-trở thành dân tộc lớn về nhân cách và có thể bước lên vũ đài thế giới với tư thế ngẩng cao đầu.
2. Ngay sau khi giành được chính quyền năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng các phong trào văn hóa lớn như “diệt giặc dốt”, “xây dựng đời sống mới”, khẳng định tầm quan trọng của văn hóa trong kiến thiết đất nước. Tư tưởng đó được cụ thể hóa xuyên suốt trong mọi cương lĩnh, nghị quyết của Đảng, từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đến Cương lĩnh năm 1991 và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (năm 2014). Qua mỗi giai đoạn, Đảng ta đều xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực nội sinh cho sự phát triển đất nước.
Từ đường lối đúng đắn đó, một hệ thống thể chế văn hóa ngày càng hoàn chỉnh đã được xây dựng. Các đạo luật quan trọng lần lượt ra đời như: Luật Di sản văn hóa, Luật Điện ảnh, Luật Thư viện, Luật Quảng cáo, Luật Báo chí... tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Bên cạnh đó, các chính sách ưu đãi đầu tư cho văn hóa, cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ trong sáng tạo nghệ thuật, hay chủ trương xã hội hóa lĩnh vực văn hóa cũng được triển khai đồng bộ. Mạng lưới thiết chế văn hóa từ Trung ương đến địa phương từng bước được củng cố, phát triển.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã biết khai thác văn hóa như một trụ cột quan trọng trong chiến lược ngoại giao hiện đại. Ngoại giao văn hóa trở thành “cầu nối mềm” để đưa hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Những năm gần đây, văn hóa góp phần không nhỏ vào các diễn đàn đa phương lớn như Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), tạo nên một diện mạo mềm mại mà kiêu hãnh của một Việt Nam đang trên hành trình hiện đại hóa.
3. Trải qua 80 năm dựng xây, văn hóa Việt Nam đã có những bước tiến dài trên nhiều lĩnh vực-không chỉ khẳng định được bản sắc trong nước mà còn lan tỏa mạnh mẽ ra thế giới, đóng góp tích cực vào hình ảnh và vị thế quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa. Từ di sản đến sáng tạo, từ truyền thống đến đương đại, từ bảo tồn đến công nghiệp hóa, văn hóa đã không còn là “phần hồn tĩnh lặng” mà trở thành lực đẩy mềm đầy nội lực và hiện đại.
Về di sản văn hóa, có thể nói chưa bao giờ các giá trị văn hóa dân tộc được quan tâm và phát huy mạnh mẽ như hiện nay. Việt Nam hiện có gần 50 di sản (văn hóa, danh thắng, công viên địa chất) được UNESCO vinh danh. Nhờ sự kiên trì gìn giữ và sáng tạo trong cách phát huy di sản đã giúp những giá trị lâu đời bước vào đời sống đương đại một cách sống động, chứ không "hóa thạch" trong bảo tàng.
Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, văn hóa Việt Nam cũng không ngừng làm mới mình. Văn học sau năm 1945 đã đi từ hiện thực chủ nghĩa cách mạng đến những tìm tòi đổi mới sau đổi mới năm 1986, góp phần phản ánh sâu sắc tâm thức xã hội và con người Việt Nam qua các thời kỳ. Âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, mỹ thuật cũng có những thành tựu riêng: Từ những bản nhạc đỏ bất hủ của Hoàng Vân, Văn Cao, Phạm Tuyên đến các tác phẩm điện ảnh giành giải thưởng quốc tế. Sân khấu truyền thống đang được hồi sinh thông qua các dự án sáng tạo kết hợp công nghệ, giáo dục trải nghiệm, du lịch di sản.
Lĩnh vực đào tạo văn hóa, phát triển con người cũng có chuyển biến rõ rệt. Tư tưởng “trọng đức, trọng tài, trọng người” được hiện thực hóa qua các chương trình đào tạo nhân lực văn hóa, nghệ thuật ngày càng gắn với thực tiễn, mở rộng hợp tác quốc tế. Các cuộc thi văn hóa, nghệ thuật quốc tế ghi nhận sự hiện diện của người Việt Nam ngày càng nhiều, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đây là minh chứng cho hiệu quả của chiến lược đầu tư vào con người như “trụ cột vàng” của phát triển bền vững.
Trong lĩnh vực báo chí, truyền thông và công nghiệp văn hóa, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Sự chuyển mình mạnh mẽ của báo chí cách mạng trong môi trường số không chỉ giữ được vai trò định hướng dư luận mà còn khẳng định bản lĩnh nghề nghiệp, đạo đức, trách nhiệm xã hội-đặc biệt trong bối cảnh thông tin sai lệch, tin giả tràn lan. Cùng lúc đó, các ngành công nghiệp văn hóa như điện ảnh, thời trang, trò chơi điện tử, âm nhạc, thiết kế, thủ công mỹ nghệ... đang dần được định hình không chỉ là lĩnh vực kinh tế mà còn là phương tiện thể hiện bản sắc và chinh phục thị trường quốc tế. Các lễ hội văn hóa, Tuần lễ Việt Nam ở nước ngoài, chiến dịch truyền thông về ẩm thực, áo dài, cà phê... đều là những “sứ giả mềm” mang tinh thần Việt Nam ra thế giới một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Việt Nam ngày càng chủ động hơn trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia bằng văn hóa. Những biểu tượng văn hóa-từ kiến trúc, ngôn ngữ, phong cách sống, lễ hội truyền thống đến tinh thần hiếu khách, sáng tạo-đang dần trở thành tài sản vô hình có giá trị chiến lược trong hội nhập quốc tế. Nhiều địa phương đã biết khai thác sức mạnh mềm này để tạo dấu ấn riêng, từ Hà Nội-thành phố sáng tạo UNESCO đến Huế-thành phố di sản, hay Hội An, Đà Lạt, Sa Pa... trở thành điểm đến mang tính biểu tượng về bản sắc.
4. Bước vào kỷ nguyên số, với sự bùng nổ của công nghệ, trí tuệ nhân tạo, truyền thông đa phương tiện và quá trình toàn cầu hóa sâu rộng, văn hóa Việt Nam đứng trước cả cơ hội lẫn thách thức chưa từng có. Một mặt, văn hóa có cơ hội để lan tỏa rộng hơn, nhanh hơn, vượt qua mọi biên giới địa lý nhờ sức mạnh của nền kinh tế số, các nền tảng trực tuyến và công nghiệp sáng tạo. Mặt khác, văn hóa cũng phải đối mặt với nguy cơ bị đồng hóa, bị “nhấn chìm” trong dòng chảy toàn cầu, hoặc bị biến dạng bởi những giá trị lệch chuẩn, thiếu lành mạnh.
Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã xác định rõ: Phát triển văn hóa không chỉ là giữ gìn di sản hay tôn vinh truyền thống, mà phải nâng tầm văn hóa thành một trụ cột chiến lược, song hành cùng kinh tế và chính trị trong mọi định hướng phát triển đất nước. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (năm 2014) đã nhấn mạnh yêu cầu “phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam toàn diện, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với hoàn thiện thị trường văn hóa”-đây chính là lời khẳng định rằng, tương lai phồn vinh và hạnh phúc của Việt Nam phụ thuộc không nhỏ vào sức mạnh của nền tảng văn hóa.
Đặc biệt, sức mạnh mềm quốc gia được hình thành từ lịch sử, văn hóa, con người và lối sống đang trở thành “vũ khí” mới để Việt Nam nâng cao vị thế quốc tế. Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay không chỉ tự hào về nguồn cội mà còn biết cách kể câu chuyện văn hóa dân tộc bằng ngôn ngữ hiện đại, từ phim ảnh, âm nhạc, ẩm thực cho đến các chiến dịch truyền thông trên mạng xã hội. Văn hóa số, bảo tàng ảo, không gian sáng tạo, du lịch thông minh... đang mở ra một chân trời mới cho sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại.
80 năm kể từ ngày độc lập, văn hóa Việt Nam đã chứng minh rằng: Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là sức mạnh mềm giúp đất nước vươn lên. Từ một dân tộc đứng dậy giành tự do, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hội nhập đầy bản lĩnh, với di sản phong phú, sáng tạo không ngừng và khát vọng vươn tới tương lai. Độc lập-Tự do-Hạnh phúc, nếu chỉ được hiểu ở khía cạnh chính trị, sẽ chưa đủ trọn vẹn; nó chỉ thật sự có ý nghĩa khi gắn với sự phát triển hài hòa của văn hóa, con người và các giá trị nhân văn sâu sắc.
PGS, TS BÙI HOÀI SƠN, Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội
* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 xem các tin, bài liên quan.