Xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc, ngay từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), Đảng ta khẳng định con đường giành thắng lợi là khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Khi Nhật đảo chính Pháp (đêm 9-3-1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và ra Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-3-1945).

Theo chỉ thị, Nhật đánh Pháp là để độc chiếm Đông Dương, Nhật sẽ thắng Pháp. Nhưng Nhật thắng chỉ là tạm thời và không thể củng cố ách thống trị của chúng ở Đông Dương. Cuộc đảo chính này sẽ gây khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Những điều kiện đó là: Chính trị khủng hoảng, nạn đói tăng lên, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt. Kẻ thù trước mắt của nhân dân Đông Dương được hội nghị xác định sau đảo chính là phát xít Nhật. Vì vậy, khẩu hiệu "đánh Pháp, đuổi Nhật" được thay bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phát xít Nhật". Hơn nữa, để chống lại chính quyền tay sai thân Nhật, hội nghị xác định khẩu hiệu "thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương".

 Mít tinh tại quảng trường Nhà hát Lớn (Hà Nội), ngày 19-8-1945. Ảnh tư liệu

Tiếp đó, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (tháng 4-1945) xác định: Chúng ta phải tích cực chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Sau một thời gian lãnh đạo, Đảng ta đã xây dựng được tiềm lực cách mạng quan trọng trên các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực quân sự. Đến thời điểm này, những điều kiện khách quan và chủ quan cho cuộc tổng khởi nghĩa ở nước ta đã hoàn toàn chín muồi.

Ngày 10-8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh bàn với một số đồng chí Trung ương về việc gấp rút chuẩn bị triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng bàn kế hoạch phát động và lãnh đạo tổng khởi nghĩa. Khi Thường vụ Trung ương chưa ấn định cụ thể ngày họp, Người đã chỉ thị: “Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình thế sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.

Trong lúc Thường vụ Trung ương Đảng chuẩn bị nội dung cho Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng, ngày 12-8, Ủy ban lâm thời Khu giải phóng ban bố “Mệnh lệnh khởi nghĩa”, nêu rõ: “Giờ phút khởi nghĩa đã tới... Toàn thể quân và dân phải chuẩn bị cho đủ tinh thần để tiếp tục cuộc tranh đấu vì quyền hoàn toàn độc lập cho đất nước”. Đêm 13-8, Ủy ban Khởi nghĩa (vừa thành lập) ra Quân lệnh số 1, tuyên bố giờ tổng khởi nghĩa đã đến và hạ lệnh cho quân, dân cả nước phải hành động cho nhanh.

Đặc biệt, trong hai ngày 14 và 15-8, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng được tổ chức ở Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang), do lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì. Sau khi phân tích tình hình quốc tế và trong nước liên quan tới thời cơ lịch sử của cách mạng Việt Nam, hội nghị quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân đồng minh giải giáp quân Nhật. Quyết định của Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng đánh dấu bước ngoặt chính thức chuyển từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở các địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên quy mô toàn quốc.

Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào (ngày 16 và 17-8) tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua lệnh tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh; quy định Quốc kỳ, Quốc ca; cử ra Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Giữa tháng 8-1945, Chủ tịch Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi tổng khởi nghĩa cho lực lượng vũ trang và nhân dân cả nước.

Thực hiện quyết định tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và lời kêu gọi của Chủ tịch Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam Hồ Chí Minh, các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân cùng lực lượng du kích, tự vệ chiến đấu và nhân dân cả nước, kể cả những địa phương chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương cũng căn cứ vào Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều địa phương, trong đó thắng lợi ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8) và Sài Gòn (25-8), góp phần quyết định đập tan sức kháng cự của quân Nhật và tay sai. Đến ngày 28-8, tổng khởi nghĩa trên cả nước cơ bản kết thúc (trừ thị xã Vĩnh Yên bị Quốc dân Đảng chiếm đóng; thị xã Lào Cai, Hà Giang, Móng Cái bị quân Tưởng và tay sai chiếm đóng; thị xã Lai Châu bị quân Nhật từ Lào quay sang chiếm giữ).

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi để lại nhiều kinh nghiệm quý báu, trong đó nổi bật là quyết định tổng khởi nghĩa sáng suốt, kịp thời nên đã giành được thắng lợi tương đối nhanh gọn, ít đổ máu. Đó là thành công lớn về nghệ thuật nắm thời cơ, quyết định táo bạo, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mang tính đặc thù của tổng khởi nghĩa giành chính quyền, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2-9-1945.

DƯƠNG ĐÌNH LẬP

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Quốc phòng an ninh xem các tin, bài liên quan.