Hội nghị Trung ương 8, khóa I của Đảng (tháng 5-1941) khẳng định nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của cách mạng Việt Nam là đánh Pháp, đuổi Nhật và vạch rõ con đường đấu tranh. Khi thời cơ đến có thể khởi nghĩa từng phần ở các địa phương, tạo điều kiện tiến tới tổng khởi nghĩa trong phạm vi toàn quốc. Khởi nghĩa từng phần là tiền đề của tổng khởi nghĩa và nằm trong điều kiện thời cơ của tổng khởi nghĩa. Dưới ánh sáng của Đảng và sự phát triển ngày càng lớn mạnh của Mặt trận Việt Minh, cho đến cuối tháng 3-1945, cao trào khởi nghĩa đã diễn ra gần như đồng loạt ở nhiều địa phương. 

Đánh chiếm Phủ Khâm sai Bắc Kỳ (Hà Nội), ngày 19-8-1945. Ảnh tư liệu 

Tại Hà Nội, cuối năm 1944, do có chỉ điểm, đồng chí Lê Quang Đạo, Bí thư Thành ủy Hà Nội bị lộ. Để bảo đảm an toàn, Trung ương quyết định điều đồng chí Lê Quang Đạo nhận nhiệm vụ khác và cử đồng chí Nguyễn Quyết (sau này là Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Đại tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) về thay. Mới 23 tuổi đã nhận trọng trách lớn, song nhờ tham gia cách mạng từ rất sớm nên đồng chí Nguyễn Quyết tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tiễn phong phú. Bằng năng lực và nhiệt huyết của tuổi trẻ, đồng chí đã lãnh đạo quân và dân Hà Nội tiến hành chuẩn bị mọi mặt cho công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Qua khảo sát tình hình, nhận thấy Thành ủy chưa có căn cứ an toàn ở vòng ngoài nên Bí thư Nguyễn Quyết đề nghị Trung ương giao lại vùng ngoại thành Hà Nội cho Thành ủy để xây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ, như: Chùa Hà, khu Dịch Vọng Tiền, Văn Điển, Thanh Trì... Về tổ chức xây dựng lực lượng, Thành ủy Hà Nội dưới sự chủ trì của Bí thư Nguyễn Quyết đã chỉ đạo thành lập 3 đội vũ trang tuyên truyền ở nội thành, gồm 2 đội tuyên truyền (Đội Thanh niên tuyên truyền xung phong thành Hoàng Diệu, Đội Công nhân xung phong) và một đội vũ trang trừ gian, diệt ác (Đội danh dự Việt Minh). Thành ủy chủ trương “Việt Minh hóa nội thành”, “Việt Minh hóa” cả một bộ phận ngụy quân, ngụy quyền đang mất phương hướng. Chính vì vậy, trong một thời gian ngắn, ta không chỉ có lực lượng chính trị của quần chúng, lực lượng tự vệ vũ trang mà còn tranh thủ xây dựng lực lượng ngay trong hàng ngũ địch.

Ngày 13-8-1945, ngay khi nghe tin Nhật đầu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Đêm cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ra Quân lệnh số 1, nêu rõ: “...Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà"... Tiếp đó, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 14 đến 15-8-1945 đã quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước. Ngày 16-8, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào nhất trí tán thành tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Sau đó, Người đã gửi thư kêu gọi tổng khởi nghĩa giành chính quyền đến đồng bào cả nước.

Bản Quân lệnh số 1. Ảnh chụp lại 

Tuy nhiên thực tế, do hoàn cảnh lịch sử, quyết định của Trung ương chưa thể ngay lập tức phổ biến đến các địa phương. Trong khi chờ lệnh của trên, bằng phương thức riêng, một số địa phương đã chủ động tiến hành nhiều hoạt động rất mạnh mẽ và quyết liệt. Hà Nội là một trong những điển hình tiêu biểu.

Ngày 16-8, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Nguyễn Khang triệu tập Thành ủy Hà Nội và hai cán bộ của Xứ ủy là đồng chí Nguyễn Huy Khôi và Lê Trọng Nghĩa để nghe phổ biến thông báo của Xứ ủy và quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa, do đích thân đồng chí Nguyễn Khang trực tiếp làm Chủ tịch. Ngay tối hôm sau, Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Quyết triệu tập hội nghị Thành ủy mở rộng với các đồng chí trong Ủy ban khởi nghĩa. Hội nghị kéo dài đến hết đêm với nhiều ý kiến thảo luận khá căng thẳng. Có ý kiến cho rằng, lúc này lực lượng địch còn rất mạnh với hơn một vạn quân Nhật, có cả xe tăng và đại bác cùng hơn 1.000 Bảo an binh. Vì vậy, để bảo đảm thắng lợi cần chờ chỉ đạo của Trung ương và lực lượng Giải phóng quân về tăng cường. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, quân Nhật dù đông, vũ khí nhiều nhưng đã rệu rã, một bộ phận đã có biểu hiện ngả theo cách mạng; ta cần phải chớp thời cơ hành động nhằm ngăn chặn ý định phô trương thanh thế, tranh thủ lôi kéo quần chúng của bọn ngụy quân, ngụy quyền. “Cuối cùng, kế hoạch khởi nghĩa cũng được thông qua tại hội nghị. Chúng tôi chủ trương sử dụng lực lượng chính trị, vũ trang tại chỗ, kết hợp giữa các đòn chính trị, quân sự và ngoại giao nhanh chóng giành chính quyền. Đặc biệt, không dùng tác chiến quân sự với quân Nhật. Thay mặt Thành ủy Hà Nội, tôi báo cáo toàn bộ kế hoạch khởi nghĩa với Xứ ủy. Đồng chí Nguyễn Khang thay mặt Xứ ủy đã nhất trí và thông qua kế hoạch này”, sinh thời, Đại tướng Nguyễn Quyết từng kể với chúng tôi như vậy.

Sáng sớm 19-8, theo lời kêu gọi của Ủy ban khởi nghĩa, hàng vạn đồng bào từ ngoại thành kéo về các cửa ô để tập trung. Trong nội thành, công nhân các nhà máy, xí nghiệp nghỉ việc, người buôn ở các chợ cũng dừng buôn bán. Tất cả nô nức kéo ra đường, trên tay là khẩu hiệu, cờ đỏ sao vàng được Việt Minh phân phát từ trước. Một cuộc mít tinh khổng lồ đã diễn ra tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của các thành viên Ủy ban khởi nghĩa, quần chúng tiến về các cơ quan hành chính đầu não của địch để giành chính quyền. Ta đã nhanh chóng uy hiếp làm chủ tình hình tại khu vực ngoại thành, tại Phủ Khâm sai Bắc Kỳ...

Tuy nhiên, tại Trại Bảo an binh, nơi Bí thư Thành ủy Nguyễn Quyết trực tiếp phụ trách, tình hình diễn ra căng thẳng. Quân Nhật đưa cả xe tăng và quân tăng cường đến uy hiếp, đòi tước vũ khí và đàn áp cuộc khởi nghĩa của đồng bào. Đại tướng Nguyễn Quyết kể: “Một mặt, tôi báo cáo tình hình với đồng chí Nguyễn Khang, một mặt, tôi cho anh em tự vệ vũ trang sẵn sàng chiến đấu. Trong khi đó, lực lượng biểu tình của quần chúng kiên quyết giữ đội hình, tiếp tục siết vòng vây chặt nhóm sĩ quan Nhật. Đồng thời, đồng bào không ngừng hô vang các khẩu hiệu nhằm uy hiếp tinh thần, gây sức ép với chúng. Ta cũng cử đại diện trực tiếp gặp tên chỉ huy, tuyên truyền với binh lính Nhật về tình hình lúc bấy giờ và mục đích cuộc khởi nghĩa của ta, cam kết bảo đảm an toàn cho binh sĩ Nhật. Giữa lúc không khí “căng như dây đàn” thì phái đoàn ngoại giao do đồng chí Nguyễn Khang cử đến. Họ kịp thời tiếp xúc với bộ tham mưu quân Nhật để đấu tranh. Trước áp lực của quần chúng và hiệu quả công tác vận động tuyên truyền của các bộ phận, đến buổi chiều cùng ngày, ta đã làm chủ Trại Bảo an binh. Cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã thành công trọn vẹn, đặc biệt là không gây đổ máu”.

TS NGUYỄN QUANG TẠO

* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 xem các tin, bài liên quan.