Việc đầu tiên phải làm là dựng một hàng rào bằng nứa vát nhọn xung quanh lán.

Những đêm đầu tiên chúng tôi phải đốt lửa suốt đêm. Không ai ngủ ngon bởi tiếng hổ gầm lúc xa lúc gần, rất sợ. Có đêm chúng tôi nằm nín thở rúm vào nhau nhìn ra ngoài rừng trăng, cách lán hơn chục mét là hai con hổ to tướng đang ngồi tình tự. Mỗi buổi sáng, trên mặt đường bụi đỏ in dày dấu chân hổ.

Cán bộ Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 78 cùng tác giả (ngoài cùng, bên trái) thăm làng Le. 

Một buổi trưa, chúng tôi đang ngủ bỗng giật mình nghe tiếng hét lạc hồn. Vơ súng bật dậy, chúng tôi kịp nhìn thấy một chiếc bóng vằn vện lao vút vào rừng. Trên con đường đất dẫn lên UBND xã Mô Rai là anh bưu tá mặt cắt không còn giọt máu ngồi bệt bên chiếc xe đạp và chiếc mũ cối in 5 dấu vuốt hổ. Chiếc mũ đã cứu mạng anh khỏi cú chụp từ trên cao.

Nhìn cảnh ấy, đại úy Nguyễn Quang Thảo, chỉ huy đại đội lắc đầu: “Đất này hổ nhiều hơn dân”. Câu nói có phần cường điệu nhưng phản ánh đúng tình hình. Diện tích xã Mô Rai khi đó khoảng 1.580km2 (năm 2013, xã Mô Rai chia tách ra thành 4 xã thuộc huyện Sa Thầy, có diện tích 585km2. Từ ngày 1-7-2025, xã Mô Rai thuộc tỉnh Quảng Ngãi), lớn hơn một số tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ lúc bấy giờ, trong khi dân số chỉ hơn 1.000 người lang thang trên rừng. Những ngôi làng chỉ có người già và phụ nữ mang bầu chờ ngày sinh nở.

Sau mấy tuần đầu e dè, bộ đội đã dần mạnh dạn tìm vào các làng để chơi. Và chúng tôi đã chứng kiến những điều lạ.

Điều lạ thứ nhất là trên nóc nhà rông của làng Le có treo một chiếc gùi mây đựng khúc gỗ lũa ngậm một mẩu ngà voi và một hòn đá sắc, dân làng gọi là Yang. Điều thú vị là Yang làng Le... biết đẻ. Những viên đá tròn trắng như trứng chim câu không biết từ đâu về nằm trong gùi. Mỗi năm vào dịp lễ hội, dân làng lại tổ chức lễ tắm Yang và đếm trứng. Theo các già làng, năm nào Yang đẻ nhiều thì được mùa to. Đây quả là điều bí ẩn chưa có lời giải thích.

Điều lạ thứ hai, đó là tục đẻ rừng. Phụ nữ Rơ Măm, Gia Rai ở Mô Rai đến ngày sinh thì tự ra căn nhà được dựng sẵn bên suối, một mình vượt cạn, đẻ xong ghé răng cắn dây rốn, ôm con xuống suối tắm rồi tìm một nắm lá glang nhai cho lại sức. Sinh nở trong hoàn cảnh ấy nên tỷ lệ sản phụ chết rất cao. Mẹ chết, đứa con đỏ hỏn bị chôn theo. Không phải chôn riêng hai mẹ con, mà chôn chung vào quan tài của những người chết trước. Rồi thì mổ trâu, mổ heo cúng ma, ăn uống, khóc, cười tại mộ.  

Năm 2003, Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng phối hợp với Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức cuộc thi bút ký về đề tài biên phòng. Khi đó tôi đang học Trường Viết văn Nguyễn Du, quyết định quay về Mô Rai. Khi lên tới làng Le, tôi rất mừng khi biết cháu Y Đức, đứa bé bị chôn theo mẹ năm 1998 nhưng được Bộ đội Biên phòng cứu thoát, vẫn còn người cậu ruột tên là A Nul và anh ruột tên là A Ngân. Những người này không tin Y Đức còn sống. Thấy vậy, tôi nảy ra ý định đưa cháu Y Đức từ Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Kon Tum về lại làng. Đề nghị của tôi được chấp thuận. Khi chiếc xe UAZ của Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum chở Y Đức về tới nơi thì cả làng Le rúng động. Tiếng chiêng đột ngột tấu lên, tiếng hú hét, tiếng khóc, tiếng cười. Tôi đã gai người khi chứng kiến cảnh cháu Y Đức sợ hãi trước cuộc chào đón éo le của cái cộng đồng đã từng chối bỏ mình. Trong những tiếng kể lể ai oán đầy nước mắt của ông già A Nul, tôi đã hiểu, người Rơ Măm chôn đứa bé theo mẹ không phải không yêu thương, mà do bất lực bởi hoàn cảnh. Giữa chốn rừng xanh núi đỏ, không sữa, không thuốc men, đứa trẻ đằng nào cũng chết, gia đình đành lòng cho chôn theo mẹ để khỏi tốn thêm một đám ma... Những chi tiết này đã giúp tôi có đủ chất liệu và cảm xúc để viết bút ký "Ở nơi rừng thẳm", tác phẩm đoạt giải nhất của cuộc thi.

Năm nay trở lại Mô Rai, tôi đã ngỡ ngàng. Những con đường bê tông thoáng rộng. Những cánh rừng cao su bạt ngàn. Và điều khiến tôi sửng sốt nhất đó chính là những con người nơi đây. Ngày xưa, họ sống trong bốn bề rừng vây núi dựng nên khuôn mặt lúc nào cũng u ẩn, tù đọng thì nay, họ phơi phới trong không gian tươi mới. Riêng người Rơ Măm, ngày xưa sống biệt lập, dịch bệnh và thú dữ đã đẩy dân tộc này tới nguy cơ tuyệt chủng, năm 2003 chỉ còn 120 người thì nay đã tăng lên con số 500 người. Nhờ hệ thống điện, đường, trường, trạm phát triển, internet về tới tận nhà nên thanh niên Rơ Măm đã “bung ra” hòa nhập với xã hội rộng lớn. Từ một cộng đồng 100% mù chữ thì nay làng Le đã có hàng trăm con em tốt nghiệp trung học, hàng chục con em tốt nghiệp cao đẳng, đại học. Hầu hết thanh niên trong làng đã trở thành công nhân của Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 78 (Binh đoàn 15) với mức lương trung bình 10 triệu đồng mỗi tháng.

Dân làng đón cháu Y Đức năm 2003. 

Ngắm những công nhân người Rơ Măm, Gia Rai, tôi thấy rõ có một sự chuyển biến lớn về thể chất. Ngày xưa, khi lên làng Le, tôi thấy chiều cao của người Rơ Măm trưởng thành chỉ “ngang ghè rượu”, nay đã cao trung bình 1m60.

Khi thăm những điểm trường nội trú trên địa bàn, ngắm những cháu bé người Rơ Măm, tôi đã không khỏi ngạc nhiên. Da trắng, mắt sáng, các cháu hồn nhiên, mạnh dạn giao tiếp với bạn bè, với khách... Có được điều này, ngoài chế độ dinh dưỡng tốt còn do người Rơ Măm đã kết hôn với người Kinh, Gia Rai, Xơ Đăng... tạo nên những thế hệ khỏe mạnh, thông minh.

Những ngày ở Mô Rai lần này tôi được tham dự một “bữa ăn đoàn kết” thú vị của công nhân Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 78. Bữa sáng thịnh soạn như một mâm cỗ làng ở Đồng bằng Bắc Bộ, có cơm nấu từ gạo ST25 thơm lừng, thịt heo rang cháy cạnh, canh xương hầm khoai... đặc biệt là hai đĩa thịt thủ và lòng heo. Những thứ này được lấy từ một khu sản xuất chăn nuôi độc đáo.

Khu sản xuất nằm cạnh sông Ia Grai, gần đập Mô Rai. Một lò nấu rượu hiện đại với những nồi inox lớn, hệ thống ủ men, chưng cất theo quy trình khép kín. Hàng trăm con heo tạ da đỏ au say hèm rượu bước ngả nghiêng trong chuồng. Đàn vịt đẻ hàng nghìn con tung tăng bơi lội trong những hồ nước rộng... Tận dụng địa thế, đơn vị đã làm 5 hồ thả nhiều loại cá trắm, mè, trê, chép... Lợi ích của mô hình này không chỉ cung cấp thực phẩm và đồ uống sạch với giá rẻ hơn thị trường cho công nhân và dân làng mà còn tạo nên một hệ sinh thái bền vững. Cây tốt, cá nhiều, các loài chim đặc hữu như Kơ tia, Chơ rao... đã trở về Mô Rai. Những đêm theo công nhân cạo mủ, tại vùng giáp ranh giữa các lô cao su, tôi đã bắt gặp hàng đàn khỉ, nai, heo rừng...

Đứng ngắm mặt trời đỏ ối từ từ xuống núi và những cánh chim chấp chới về rừng, trong tôi dâng lên một cảm xúc rất lạ. Từ một vùng đất hoang sơ mang dáng dấp của một xã hội nguyên thủy với săn bắn hái lượm, phát đốt chọc trỉa, hôn nhân cận huyết, đến nay, cuộc sống ở Mô Rai đã mang dáng dấp của một xã hội nông thôn ngày càng văn minh, nông nghiệp ngày càng hiện đại.

Để có sự thay đổi hình thái này chính là nhờ chiến lược “vành đai xanh biên giới” của Bộ Quốc phòng. Gần 30 năm bền bỉ thực hiện chủ trương, máu, mồ hôi và nước mắt của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn Tây Nguyên (Quân đoàn 3), Binh đoàn 15, Bộ đội Biên phòng... gieo xuống đất này đã biến thành quả ngọt.

Theo quy luật “đất lành chim đậu”, không chỉ người Rơ Măm yên tâm bám đất, bám làng mà người dân của nhiều dân tộc, nhiều vùng miền đã tìm tới Mô Rai lập nghiệp, tạo thành một cộng đồng đa sắc tộc đoàn kết, gắn bó xây dựng, bảo vệ biên cương. Ở Mô Rai, tuyệt nhiên không có hiện tượng truyền đạo trái phép, chống phá chính quyền. Tôi đã gặp một bà giáo về hưu người Thanh Hóa. Bà tâm sự, khi tiễn con vào đây làm công nhân, bà đã nghĩ chỉ dăm tháng đến một năm, con bà sẽ phải hồi hương. Vậy mà thực tiễn đã chứng minh điều ngược lại. Chính bà đã phải khăn gói vào Mô Rai với các con vì “cuộc sống ở đây hơn hẳn ngoài quê”.

Tôi quay lại thăm ngôi nhà rông có vị Yang bí ẩn. Anh A Thái, một trí thức trẻ, Trưởng thôn làng Le, đại biểu HĐND tỉnh Kon Tum cho biết “Yang vẫn đẻ”. Hằng năm, làng vẫn làm lễ tắm Yang, đếm trứng cùng các nghi lễ truyền thống như đâm trâu, múa xoang, biểu diễn cồng chiêng, dệt thổ cẩm... Tôi buột miệng hỏi: “Còn hủ tục chôn con theo mẹ?”. Không chỉ A Thái mà tất cả những thanh niên Rơ Măm đang đứng xung quanh chúng tôi đều ngơ ngác. Ngơ ngác là phải, bởi với độ tuổi trên dưới 20, họ chưa từng thấy cái cảnh rùng rợn ấy bao giờ. Chỉ có những người già tỏ vẻ đăm chiêu hồi tưởng về thời dĩ vãng đói nghèo tối tăm xa lăng lắc.

ĐỖ TIẾN THỤY

* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 xem các tin, bài liên quan.