 |
Tiến sĩ Trần Đăng Khoa.
|
Phóng viên (PV): Thưa ông, thời gian qua, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, thách thức ảnh hưởng đến chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, nhất là sự chênh lệch giữa các vùng miền và nhóm dân tộc. Ông có ý kiến gì về vấn đề này?
TS Trần Đăng Khoa: Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em những năm qua đạt nhiều thành tích. Các chỉ số giảm tử vong mẹ, giảm tử vong trẻ em và giảm suy dinh dưỡng trẻ em ở Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Trong đó, tỷ lệ phụ nữ sinh được khám thai từ 4 lần trở lên đạt hơn 80%; tỷ lệ phụ nữ sinh được nhân viên y tế đỡ duy trì 95-97%; tỷ lệ chăm sóc sau sinh trong 7 ngày đầu đạt khoảng 80%. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, thách thức ảnh hưởng đến việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em, nhất là sự chênh lệch giữa các vùng miền và nhóm dân tộc. Trước đây, tỷ lệ tử vong mẹ trên 100.000 trẻ sơ sinh tại Việt Nam năm 2000 là 165 ca, năm 2009 là 69 ca và hiện tại giảm xuống 46 ca, phấn đấu đến năm 2020 xuống 45 ca. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng hàng thứ 3, nhưng so với các nước phát triển thì Việt Nam còn một khoảng cách rất xa. Đặc biệt, tỷ lệ tử vong mẹ ở vùng sâu, vùng xa, miền núi cao gấp 3,5 lần so với vùng đồng bằng, đô thị, tỷ lệ tử vong mẹ ở dân tộc Mông cao gấp 7-8 lần so với dân tộc Kinh, Tày.
 |
Cho trẻ uống vitamin A tại phường Việt Hưng, quận Long Biên, TP Hà Nội. Ảnh: THU TRANG |
PV: Theo thống kê của Vụ Sức khỏe Bà mẹ-Trẻ em, mỗi ngày có 39 trẻ sơ sinh tử vong và tập trung chủ yếu tại khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Ông có ý kiến gì về vấn đề này?
TS Trần Đăng Khoa: Thực tế chứng minh tỷ lệ trẻ tử vong dưới 1 tuổi thường liên quan nhiều đến các yếu tố dinh dưỡng, chăm sóc bà mẹ khi mang thai và sinh nở. Đồng thời, các tập quán chăm sóc lạc hậu của người dân tộc thiểu số với trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai khiến tỷ lệ tử vong cao ở trẻ sơ sinh. Ví dụ như tập quán phổ biến của người dân tộc thiểu số là tự sinh con, không cần trợ giúp của chuyên viên y tế; cắt rốn trẻ sơ sinh bằng vật dụng chưa được khử trùng, mất vệ sinh, thiếu kiến thức chăm sóc trẻ sơ sinh... Mặt khác, phụ nữ dân tộc thiểu số thường kết hôn, sinh con sớm khi chưa phát triển hoàn thiện về mặt tâm, sinh lý có thể gây ra nhiều hệ lụy như: Đẻ non, thai nhi kém phát triển, suy dinh dưỡng, thể trạng yếu... Hiện ngành y tế đang nỗ lực để giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, đặc biệt là ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.
PV: Nguyên nhân của tình trạng tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở vùng sâu, vùng xa còn cao là do đâu, thưa ông?
TS Trần Đăng Khoa: Nguyên nhân được cho là do ở xa cơ sở y tế nên nhiều người mẹ vùng khó khăn phải sinh con tại nhà, không được chăm sóc y tế kịp thời, đúng cách, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Cùng với đó, tại vùng sâu, vùng xa, vấn đề thiếu nhân lực y tế, nhất là thiếu cán bộ chuyên môn sản, nhi, gây mê hồi sức, 30% bác sĩ đa khoa làm công tác chăm sóc sản khoa, nhi khoa tại tuyến huyện; thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị. Năng lực về cấp cứu sản khoa, sơ sinh (sàng lọc, phát hiện dấu hiệu nguy hiểm, chuyển tuyến, chẩn đoán, tiên lượng và xử trí) còn hạn chế ở những vùng khó khăn. Mặt khác, đội ngũ cô đỡ thôn, bản có thể giúp ngành y tế giảm tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh, tuy nhiên hiện nay, chính sách đối với đội ngũ cô đỡ thôn, bản chưa được quan tâm đúng mức. Thời gian qua, phụ cấp của cô đỡ thôn, bản bị cắt giảm và gần như không còn. Ngành y tế đã khuyến cáo các tỉnh, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa cần quan tâm, hỗ trợ cô đỡ thôn, bản.
PV: Để cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế đã có những biện pháp gì, thưa ông?
TS Trần Đăng Khoa: Để cải thiện các chỉ số chênh lệch sức khỏe bà mẹ và trẻ em giữa các vùng miền và dân tộc, chúng ta cần phải làm nhiều việc khác nhau, trong đó có việc xây dựng công cụ theo dõi, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Một trong những giải pháp được Vụ Sức khỏe Bà mẹ-Trẻ em thực hiện là xây dựng sổ theo dõi sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Công cụ này được thực hiện theo mô hình của Nhật Bản. Đến nay, sổ theo dõi sức khỏe bà mẹ và trẻ em được triển khai trên toàn quốc và đã phủ sóng hầu hết các tỉnh, thành phố. Cuốn sổ này được thiết kế khoa học theo diễn tiến quá trình mang thai và chăm sóc trẻ đến 6 tuổi. Hiện đã có hơn 40 nước sử dụng loại sổ này, nhằm kịp thời phát hiện các nguy cơ, tai biến có thể gặp phải trong quá trình mang thai cũng như các dấu hiệu bất thường về bệnh tật của trẻ. Đây cũng là công cụ góp phần giảm tử vong mẹ và trẻ em.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
DIỆP CHÂU (ghi)