Mục tiêu tổng quát của đề án là ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào DTTS, góp phần nâng cao chất lượng dân số, nguồn nhân lực vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh...

Sau 5 năm thực hiện đề án, với sự vào cuộc tích cực của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội trên địa bàn, tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào DTTS tại tỉnh Thanh Hóa đã giảm đáng kể, nhận thức của người dân có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, tình trạng này vẫn còn diễn biến phức tạp, nhất là đối với đồng bào dân tộc Mông và Khơ Mú.

 Ông Giàng A Chìa (bên phải) ở bản Ón, xã Tam Chung (Mường Lát, Thanh Hóa) mới 40 tuổi nhưng đã có 4 cháu nội, 1 cháu ngoại. Ảnh: KHÁNH HOÀNG.

Mường Lát là một trong những huyện biên giới nghèo nhất nước, đồng bào DTTS chiếm phần lớn dân số toàn huyện, trong đó, đồng bào dân tộc Mông chiếm khoảng 39%. Đến các bản dân tộc Mông tại huyện Mường Lát, không khó để bắt gặp hình ảnh những cô gái trẻ địu em bé trên lưng. Người lạ sẽ nhầm tưởng đó là chị đang địu em, nhưng thực tế, đó lại là những bà mẹ mới chỉ 15-16 tuổi, thậm chí 13-14 tuổi.

Năm nay mới 16 tuổi, nhưng Vàng Thị Súa và chồng là Giàng A Lâu ở bản Ón, xã Tam Chung đã có một đứa con hơn 2 tháng tuổi. Do lập gia đình khi chưa đủ tuổi nên vợ chồng Giàng A Lâu hiện chưa đăng ký kết hôn, em bé cũng chưa được đăng ký khai sinh theo luật định. Đáng nói, cặp vợ chồng tảo hôn này lại là con của ông Giàng A Chìa, hiện là Phó trưởng bản Ón.

Được biết, gia đình ông Chìa có 4 người con thì 3 người tảo hôn. Năm nay ông Chìa 40 tuổi, vợ ông là bà Phàn Thị Nhờ 38 tuổi, nhưng đã có tới 4 cháu nội, 1 cháu ngoại, có cháu đã học lớp 3. 

Bà Trương Thị Huyên, Trưởng phòng Dân tộc huyện Mường Lát cho biết: “Từ năm 2016 đến 2020, huyện Mường Lát có 111 cặp tảo hôn. Thế nhưng chỉ tính riêng 9 tháng năm 2021, số cặp tảo hôn tại đây đã lên tới 69 cặp... Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống ở đồng bào DTTS, trong đó chủ yếu là do nhận thức hạn chế, tập quán của đồng bào còn lạc hậu, vẫn còn quan niệm kết hôn trong họ tộc để giữ tài sản gia đình, không mang của cải sang họ khác. Bên cạnh đó là tâm lý muốn sớm có con, có người nối dõi, có thêm lao động trong gia đình...”.

Theo báo cáo của Ban Dân tộc tỉnh Thanh Hóa, quá trình thực hiện đề án, do nguồn kinh phí của địa phương rất hạn hẹp nên sau 3 năm, đến năm 2018 mới có kinh phí cho các huyện, dẫn đến nhiều mục tiêu của đề án chưa đạt hiệu quả. 

Phó trưởng ban Dân tộc tỉnh Thanh Hóa, ông Cầm Bá Tường chia sẻ: “Hậu quả của tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống rất nặng nề, khiến chất lượng dân số suy giảm, suy thoái nòi giống, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực và là một trong những lực cản đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, sự phát triển bền vững của vùng DTTS. Những năm qua, chúng tôi đã phát huy tinh thần trách nhiệm, triển khai đa dạng các hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hôn nhân, phòng ngừa tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Tuy nhiên, kết quả cũng chưa được như mong muốn, nhiều mục tiêu cụ thể của đề án chưa đạt...”.

Vùng dân tộc miền núi tỉnh Thanh Hóa có gần 700.000 người DTTS, chủ yếu thuộc 6 dân tộc: Mường, Thái, Mông, Thổ, Dao và Khơ Mú. Tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống thường xảy ra ở các dân tộc như Mông, Khơ Mú, một bộ phận dân tộc Thái cư trú ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và rải rác trong cộng đồng các dân tộc khác tại một số huyện miền núi, vùng cao, như: Mường Lát, Quan Hóa, Quan Sơn... 

Để tiếp tục thực hiện đề án trong giai đoạn 2021-2025, xóa bỏ tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống một cách bền vững, rất cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp, trong đó chú trọng đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; mặt khác, cần bố trí kinh phí đầy đủ, kịp thời cho các địa phương để bảo đảm thực hiện các nội dung của đề án theo đúng kế hoạch.

HOÀNG KHÁNH TRÌNH