Hơn 40 năm đã trôi qua, nhưng câu chuyện những ngày thầy và trò Trường Sĩ quan Hậu cần (nay là Học viện Hậu cần) sát cánh cùng Nhân dân hàn khẩu đê Cống Thôn vẫn còn đọng lại trong ký ức mỗi người. Thầy giáo, Đại tá Nguyễn Khắc Chương, nguyên giáo viên Khoa Hậu phương, Học viện Hậu cần, nay đã bước sang tuổi 74, dáng gầy, đôi mắt mờ đục nhưng hễ nhắc đến chuyện cứu đê năm ấy thầy vẫn rưng rưng.
Thầy Chương kể chuyện những ngày hàn khẩu đê Cống Thôn.
Vào những năm chiến tranh, toàn bộ các khoa giáo viên Trường Sĩ quan Hậu cần sơ tán đóng quân tại các làng thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Một ngày cuối tháng 6-1971, trời mưa nhiều, nước sông Cà Lồ dâng cao gần báo động 3. Cánh cửa đê Cống Thôn đã dùng nhiều năm nên nước dâng cao phá hỏng một góc đê. Nước tràn vào phía trong đê như thác lũ, nếu không kịp ngăn chặn thì cả cống và đê sẽ bị sập, đe dọa tính mạng hàng ngàn hộ dân các huyện ở Bắc Ninh.
Thầy Chương nhớ lại: “Hôm đó tôi đang giảng dạy thì được lệnh toàn đơn vị gấp rút lên đê ứng cứu nhân dân, chỉ để lại người trông khí tài và bộ phận nấu ăn ở nhà. Nhiều lực lượng và nhân dân đã có mặt nhưng chỉ có lực lượng bộ đội và dân quân du kích được huy động xử lý chỗ vỡ. Vì đê yếu, các phương tiện xe vận tải không vào được nên nhân dân và các lực lượng khác được phân công bố trí trải dài từ phà Đông Xuyên vào đến cống Vọng Nguyệt, có nhiệm vụ vận chuyển rọ sắt, đá hộc và bao tải đất. Trời tối dần, đến đêm, Khoa Xe-Xăng-Vận tải phải đem cả máy phát điện lên, nổ máy thắp đèn sáng để phục vụ mọi người làm việc.
Càng về sau, tình thế càng nguy hiểm và phức tạp. Vì nước chảy xiết, nếu bỏ đá và đất phía trước thì cống có nguy cơ vỡ thêm. Nhưng nếu bỏ đất đá phía sau cống thì bị nước đẩy mất hút. Sau đó, một quyết định sáng suốt được đưa ra là phải trưng dụng nhiều thuyền chài của người dân lân cận để đổ đá đầy thuyền rồi đánh đắm thuyền theo hình vòng cung trước cửa cống, tiếp đó các bao tải đất và rọ đá được ném xuống tới tấp. Đến lúc chỉ còn một mét nước, trời đổ mưa tầm tã, nước càng lên cao, ngay lập tức bộ đội lưng trần nhảy xuống nước, đứng xếp hàng, ôm chặt lấy nhau để tạo thành con đê người chắn nước. Các đồng chí ở hàng sau xếp bao tải đất và đá. Anh em lúc ấy da thịt tím tái, người run lập cập nhưng nhất quyết hoàn thành nhiệm vụ hàn khẩu đê Cống Thôn.
Cán bộ, giáo viên Trường Sĩ quan Hậu cần tham gia hàn khẩu đê Cống Thôn năm 1971 (ảnh chụp lại).
Cô Vũ Thị Đức, 60 tuổi, người phụ trách cấp dưỡng phục vụ bộ đội tham gia chống “thuỷ tặc” năm đó kể lại: “Nhìn thấy cảnh đồng đội lưng trần ngâm mình dưới nước để cứu đê chúng tôi xúc động lắm. Đến giờ ăn, chị em chúng tôi gánh cơm, bánh mỳ ra. Các đồng chí ấy thay ca để luân phiên ăn; thầy, trò và bà con nhân dân xung quanh cùng ăn. Những ngày đó bộ phận nấu ăn chúng tôi được lệnh nấu gấp đôi số người ăn để tăng thêm sức cho bộ đội. Bà con nhân dân cũng mang thức ăn ra tiếp tế nhưng do mệt và tình thế gấp gáp nên các anh ăn vội vàng rồi lại lao vào làm ngay. Bà con lúc ấy vừa thương vừa cảm mến vì tinh thần quyết tâm, dũng cảm vì Nhân dân phục vụ của bộ đội ta”.
Vật lộn vất vả với mưa lũ suốt hai ngày, hai đêm bộ đội mới ngăn được dòng thác lũ hung dữ. Đê Cống Thôn được hàn khẩu. Sau đó đất đá được đổ đầy cả trước và sau cống tạo thành con đê vững chãi hơn trước.
Đợt ấy không phải là lần đầu tiên thầy và trò Trường Sĩ quan Hậu cần cùng Nhân dân chiến đấu với “thuỷ tặc”. Trước đó là đợt cứu đê Mai Lâm năm 1957, hàn cống Vọng Nguyệt năm 1966, hàn khẩu đê Cống Thôn năm 1971. Bất kỳ lúc nào có lệnh là thầy trò trường Sĩ quan Hậu cần lại lên đường, sát cánh cùng với Nhân dân chống thiên tai. Nhiều năm đã trôi qua, nhưng câu chuyện chống “thủy tặc” ngày nào vẫn được thầy trò Học viện Hậu cần kể lại cho nhau nghe như một bài học về tinh thần hết lòng vì Nhân dân phục vụ.
Bài, ảnh: PHẠM KIÊN