QĐND - Mới đây, dư luận xôn xao về chuyện một số em học sinh khuyết tật (NKT) từ chối “đặc cách” được miễn thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Có lẽ, đây chỉ là một trong hàng trăm câu chuyện mà người khuyết tật muốn gửi tới toàn xã hội thông điệp: Hãy nhìn nhận NKT là một bộ phận của nguồn nhân lực để phát triển đất nước.

 Đó cũng là điều mà nhiều đại biểu tham gia Hội nghị Giao lưu và trao đổi thường niên giữa các tổ chức NKT vừa được tổ chức tại Hà Nội quan tâm thảo luận: Làm sao để thời gian tới các cơ quan chức năng sớm hoàn thiện chính sách đối với người khuyết tật. Đặc biệt, cần chuyển từ quan điểm trợ giúp nhân đạo sang quan điểm bảo đảm quyền con người và nhìn nhận NKT là một bộ phận của nguồn nhân lực đất nước. Điều này liệu có hiện thực?

Các đại biểu tham gia hội nghị đang trao đổi kinh nghiệm sống và làm kinh tế.

Năng lực được khẳng định

Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), hiện nay nước ta có khoảng 5,4 triệu người khuyết tật, chiếm 6,34% tổng dân số. Trong đó, độ tuổi từ 16 đến 55 chiếm 60%, trên 55 tuổi chiếm 24%, dưới 16 tuổi chiếm 16%. Và hằng năm, lực lượng lao động này làm ra sản phẩm, dịch vụ trị giá hàng nghìn tỷ đồng.

Thế nhưng, một thực tế đáng buồn là hầu hết NKT chủ yếu làm việc ở các xí nghiệp, công ty tư nhân hay các cơ sở do chính những người cùng cảnh ngộ trong Liên hiệp hội về NKT Việt Nam lập nên. Phải chăng họ mặc cảm nên không nộp hồ sơ vào các doanh nghiệp ngoài Liên hiệp hội?

Trao đổi với chúng tôi về điều này, anh Trần Văn Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH Cơ - Điện tử tự động hóa SK (Thanh Hóa) cho biết: “Bản thân tôi cũng là một người khuyết tật, tháng ngày ngược xuôi xin việc ở các công ty. Tôi thấy nhận thức không đúng về NKT vẫn là một vấn đề nan giải và đang trở thành rào cản trên con đường hòa nhập cộng đồng của NKT. Thực tế chứng minh, 12 lao động khuyết tật đang làm việc trong công ty tôi không thua kém một lao động bình thường nào. Họ đảm trách công việc như nhau và hưởng mức lương như nhau từ 1,8 đến 2 triệu đồng. Theo tôi, để NKT hòa nhập nhanh với cộng đồng và xóa đi mọi rào cản, trước hết NKT cần phải được khẳng định như một nguồn nhân lực để phát triển đất nước”.

Thiết nghĩ, nếu NKT được thừa nhận là một bộ phận của nguồn nhân lực, trước hết nó sẽ tạo điều kiện cho NKT được đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mình so với các đối tượng lao động khác như: Được đóng Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, được hưởng các chính sách của Nhà nước về đào tạo nghề cho người lao động… Nhưng quan trọng hơn, nó làm thay đổi nhận thức của xã hội về NKT, vị thế của NKT được nâng cao lên trong mắt các nhà tuyển dụng.

Anh Phạm Trọng Hoàn, Giám đốc Công ty TNHH May HT Song Long (Thái Bình) chia sẻ: “Hiện tại công ty tôi có hơn 50 lao động là NKT, họ được đào tạo nghề bài bản, năng lực làm việc được khẳng định. Đơn cử, nếu một lao động bình thường một ngày làm được 1000 sản phẩm thì NKT cũng làm được như thế, thậm chí có những trường hợp làm ra sản phẩm nhiều hơn, do họ cần cù và nhẫn nại hơn. NKT kém sự nhanh nhẹn bởi những dị tật nhưng bù lại là sự cần cù, chịu khó, điều này tôi nghĩ doanh nghiệp nào cũng cần”.

Anh Phạm Trọng Hoàn đang hướng dẫn công nhân làm việc

Khi nào đưa vào luật?

Năng lực làm việc của người khuyết tật đã được khẳng định bằng chính những sản phẩm mà họ tạo ra, từ những bộ quần áo, đến những bức tranh thêu… không chỉ tiêu thụ ở trong nước mà còn xuất ra nước ngoài. Thế nhưng, nhìn một cách khách quan NKT vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi so với các nguồn nhân lực khác bởi những rào cản từ mọi phía.

Tham gia buổi giao lưu, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Toản, Trưởng phòng Chính sách xã hội (Cục Bảo trợ xã hội, Bộ LĐTBXH) đưa ra một số định hướng để hoàn thiện chính sách trong thời gian tới như: Thay các biện pháp hỗ trợ cá nhân bằng việc tạo môi trường, điều kiện, cơ hội tiếp cận bình đẳng, không rào cản đối với NKT; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ chăm sóc NKT về đời sống, giáo dục, y tế, giao thông, công nghệ thông tin; xã hội hóa công tác chăm sóc NKT và nâng cao vai trò tham gia, cũng như phân cấp và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức. Trong đó, đặc biệt cần chuyển mạnh từ quan điểm trợ giúp nhân đạo sang quan điểm bảo đảm quyền con người và nhìn nhận NKT là một bộ phận của nguồn nhân lực.

Tuy nhiên, cũng theo Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Toản: “Vấn đề luật sẽ tiếp tục được bổ sung trong thời gian tới, điều quan trọng là nhận thức của xã hội về NKT phải theo hướng tích cực hơn. Các tổ chức, cá nhân cần phá bỏ mọi rào cản để họ hòa nhập nhanh và thấy mình có ích trong cộng đồng”.

Được biết, hiện nay có tới 37% NKT thuộc diện nghèo, 24% đang ở nhà tạm. Một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ NKT nghèo ngày càng gia tăng là do họ chưa được đào tạo nghề để đảm bảo cuộc sống cho mình, số được đào tạo lại không có môi trường để làm việc nên vẫn phải lệ thuộc hoàn toàn vào người thân.

Bà Đặng Huỳnh Mai, Chủ tịch Liên hiệp hội về NKT Việt Nam chia sẻ: “Chúng tôi sẽ xúc tiến đẩy nhanh quá trình luật hóa điều trên đối với NKT, từ đó tạo động lực để NKT làm việc và cống hiến cho xã hội. Về phía chúng tôi, sẽ nhận trách nhiệm phối hợp cùng các cơ quan chức năng đào tạo nghề cũng như kỹ năng sống độc lập cho NKT. Về phía doanh nghiệp hãy trao cho NKT “cầu câu” như trao cho bao đối tượng khác, tôi tin chắc rằng họ sẽ không để bạn thất vọng”.

Duy Thành