Đề xuất này được Bộ Quốc phòng đưa ra khi tổ chức lấy ý kiến để hoàn thiện Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với quân nhân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân. Thông tư này dự kiến áp dụng đối với: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp Quân đội nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội nhân dân; học viên Quân đội, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí.
Trường hợp các đối tượng trên trong thời gian đi học tập, thực tập, công tác, nghiên cứu, đi điều dưỡng ở nước ngoài mà vẫn hưởng tiền lương hoặc phụ cấp quân hàm hoặc sinh hoạt phí ở trong nước, thì được đóng và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội quy định tại Thông tư này.
Điều 13 Dự thảo Thông tư nêu trên đề xuất đối tượng và điều kiện hưởng lương hưu hằng tháng như sau:
1. Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư này khi nghỉ việc, có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên được hưởng lương hưu theo quy định tại khoản 2 Điều 64 Luật bảo hiểm xã hội và Nghị định của Chính phủ.
a) Lộ trình điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của người lao động quy định tại Nghị định của Chính phủ thực hiện theo Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư này.
 |
Phụ lục I ban hành kèm theo Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với quân nhân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân. |
b) Lộ trình điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của người lao động quy định tại Nghị định của Chính phủ thực hiện theo Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư này. Việc xác định thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và thời gian công tác ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1-1-2021 để làm căn cứ xét điều kiện hưởng lương hưu (nếu có thời gian ngắt quãng thì được cộng dồn), hướng dẫn như sau:
Trong thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc thời gian công tác ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1-1-2021 mà người lao động phải nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động do bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản, thì được tính là thời gian làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc thời gian công tác ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1-1-2021.
Thời gian người lao động được cử đi làm việc, đi học, hợp tác lao động mà không làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do cấp có thẩm quyền ban hành hoặc làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1-1-2021 và thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc còn thiếu tối đa 6 tháng để đủ điều kiện hưởng lương hưu, thì không được tính là thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1-1-2021.
 |
Phụ lục II ban hành kèm theo Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với quân nhân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân. |
Ví dụ 1: Đồng chí Đại úy QNCN Lê Văn Nam có quá trình công tác như sau: Từ tháng 4-2003 đến tháng 3-2010 là lao động hợp đồng làm việc trong điều kiện lao động bình thường; từ tháng 4-2010 đến tháng 3-2022 (12 năm) là công nhân quốc phòng, thợ hàn (thuộc danh mục nghề, công việc nặng nhọc độc hại nguy hiểm); từ tháng 4-2022 đến tháng 9-2026 (4 năm 6 tháng) là quân nhân chuyên nghiệp, công tác tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Từ ngày 1-10-2026, đồng chí Nam nghỉ việc hưởng chế độ hưu trí. Tại thời điểm hưởng lương hưu, đồng chí Nam đủ 51 năm 6 tháng tuổi, có 23 năm 6 tháng tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó có tổng thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn là 16 năm 6 tháng. Do đó, đồng chí Nam đủ điều kiện hưởng lương hưu.
2. Trường hợp người lao động đủ điều kiện về tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc còn thiếu tối đa 6 tháng để đủ điều kiện hưởng lương hưu, thì người lao động được đóng tiếp một lần cho số tháng còn thiếu với mức đóng hằng tháng bằng tổng mức đóng của người lao động và người sử dụng lao động trước khi người lao động nghỉ việc vào quỹ hưu trí và tử tuất theo quy định tại khoản 7 Điều 33 Luật Bảo hiểm xã hội.
Ví dụ 2: Đồng chí Thiếu tá QNCN Hà Thị Lý, nghỉ việc từ ngày 1-10-2025 (đủ 51 tuổi 8 tháng, có 14 năm 7 tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc). Đồng chí Lý có nguyện vọng đóng bảo hiểm xã hội một lần cho 5 tháng còn thiếu để đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội và được hưởng chế độ hưu trí hằng tháng. Tháng 9-2025, đồng chí Lý nộp tiền cho đơn vị để chuyển vào tài khoản chuyên thu bảo hiểm xã hội của Bảo hiểm xã hội Quân đội với mức đóng bằng 22% của 5 tháng tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của tháng cuối cùng trước khi nghỉ việc (tháng 9-2025). Do đó, từ tháng 10-2025, đồng chí Lý đủ điều kiện hưởng lương hưu hằng tháng.
Ví dụ 3: Đồng chí Thiếu tá QNCN Nguyễn Văn Hà, công tác trong điều kiện bình thường, bị suy giảm khả năng lao động 61% và được nghỉ việc từ ngày 1-5-2026 (đủ 51 tuổi 6 tháng, có 19 năm 8 tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc). Đồng chí Hà có nguyện vọng đóng bảo hiểm xã hội một lần cho 4 tháng còn thiếu để đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và được hưởng chế độ hưu trí hằng tháng. Tháng 4-2026, đồng chí Hà nộp tiền cho đơn vị để chuyển vào tài khoản chuyên thu bảo hiểm xã hội của Bảo hiểm xã hội Quân đội với mức đóng bằng 22% của 4 tháng tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của tháng cuối cùng trước khi nghỉ việc (tháng 4-2026). Do đó, từ tháng 5-2026, đồng chí Hà đủ điều kiện hưởng lương hưu hằng tháng.
3. Hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất theo cấp bậc quân hàm hoặc hạn tuổi phục vụ của người làm công tác cơ yếu theo Bộ luật Lao động đối với người lao động thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Thông tư này để xác định tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Nghị định của Chính phủ là cấp bậc quân hàm (bậc lương) tại thời điểm nghỉ hưu (nghỉ chuẩn bị hưu) ghi trong quyết định nghỉ hưu của cấp có thẩm quyền.
Báo Quân đội nhân dân sẽ thông tin đầy đủ tới bạn đọc nội dung Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với quân nhân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân.
QĐND
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Chính sách xem các tin, bài liên quan.