Có duyên với lính thủy
Cũng như bao thanh niên miền Bắc thời đó, học hết lớp 10, năm 1962, Nguyễn Hữu Doanh nhập ngũ vào Tổng cục II. Sau thời gian huấn luyện nhảy dù, thông tin vô tuyến, trinh sát, ông Nguyễn Hữu Doanh được điều vào chiến trường Bắc Quảng Trị thu tin hoạt động của địch với chức danh Đài trưởng trinh sát kỹ thuật 15W. Ở đây được hơn 2 năm, cấp trên cử ông về học tại Trường Sĩ quan Thông tin ở Hiệp Hòa (Bắc Giang). Sau khi tốt nghiệp, ông lại được điều động trở lại Bắc Quảng Trị chiến đấu và đảm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Thông tin Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 thuộc Quân khu 4.
Đại tá Nguyễn Hữu Doanh và quả bàng vuông lấy về từ đảo Nam Yết tháng 5-1975.
Quá trình trở thành bộ đội Hải quân của ông thật tình cờ. Ông kể, sau Chiến dịch Mậu Thân, ông được cấp trên cử đi học ở Học viện Chính trị một năm. Năm 1971 tốt nghiệp, ông được điều về Trường Sĩ quan Hải quân công tác với chức danh trợ lý cán bộ và đóng quân tại Vạn Hoa, Quảng Ninh. Trong thời gian ở đây, ông và một số cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn để thực hiện nhiệm vụ hết sức bí mật mà mãi sau ông mới biết là tiếp nhận, quản lý, huấn luyện, sử dụng tàu tên lửa vỏ gỗ. Ngày đó, tại Trung đoàn 172 Hải quân, ông đảm nhiệm chức danh Chính trị viên Tàu 902.
Thời điểm đó, 4 chiếc tàu tên lửa vỏ gỗ hay còn gọi là “tàu 2 ống” trang bị cho bộ đội Hải quân là tài sản rất lớn, là vũ khí bí mật của quân đội ta. Ông chia sẻ, tất cả cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ trên các tàu này đều được tuyển chọn khắt khe từ các đơn vị cơ sở. Trong công tác, tuyệt đối không được ai nhắc đến từ “tàu tên lửa”. Thậm chí có người gọi đùa là “tàu 2 ống” cũng bị xem xét kỷ luật. Ông tâm sự, công việc huấn luyện, SSCĐ lúc ấy theo giáo trình hết sức khẩn trương. Tàu hoạt động ở vùng biển xa không nhiều. Khi hành trình trên biển, tàu được ngụy trang hết sức kỹ càng, chỉ hoạt động vào thời điểm và ở những vùng biển cho phép. Ông Doanh nhớ lại, việc luyện tập bắn tên lửa trên tàu là sự phối hợp hiệp đồng chặt chẽ giữa các ngành hàng hải, ra-đa, thông tin, vũ khí tên lửa đối hải. Tàu hoạt động ở nơi sóng càng to thì nguy cơ nghiêng lệch càng lớn, khả năng bắn chính xác, diệt mục tiêu càng kém, nên công tác huấn luyện để thích ứng với các điều kiện thời tiết được đơn vị đặc biệt chú ý.
Sau này, ông Doanh lại được điều động về Phòng Quân lực thuộc Bộ Tham mưu, Quân chủng Hải quân. Trong thời gian công tác ở đây và cả thời điểm làm Trợ lý hướng Cục Quân lực cho đến khi nghỉ hưu, ông Doanh đã có 12 lần ra Trường Sa. Ông nhớ nhất kỷ niệm đến đảo Song Tử Tây vào tháng 8-1977. Hôm ấy, sóng biển rất lớn, nên khó khăn cho việc vào đảo. Tàu phải neo ở ngoài mép xanh, sau đó mới thả xuồng để đưa cán bộ, chiến sĩ và hàng hóa vào đảo. Ngày đó chưa có xuồng CQ và xuồng máy đẩy, nên bộ đội phải chèo thuyền bằng tay và lội bộ trên nền bãi san hô lổn nhổn, trơn trượt để vào các đảo. Khi xuồng đã vào bãi cạn, nước ngang đầu gối thì mọi người cởi quần lội bộ. Lần ấy, ông cùng các cán bộ khác phải lội nước trên nền san hô trơn trượt hàng giờ đồng hồ mới vào được đảo. Có lần, khi vào đảo Nam Yết, ông đã bị mất một chiếc giầy vì dẫm chân phải mồm con sò khổng lồ. Rất may, ông đã rút chân ra kịp thời không thì rất bị “cái bẫy” của biển ấy gây thương tích. Sau đó, ông cùng hai chiến sĩ loay hoay mãi mới phá được miệng con sò và lấy được chiếc giầy.
Tình yêu đẹp của Trung úy Hải quân
Năm 1971 ông Nguyễn Hữu Doanh mang cấp bậc Trung úy. Trong một lần xem Đoàn Văn công Hải quân về biểu diễn tại đơn vị, trái tim ông đã bị nữ diễn viên múa Đoàn Văn công Hải quân quê Hà Nội có cái tên rất đẹp là Đỗ Thị Ngọc Bảo làm cho loạn nhịp. Số là, khi xem xong tiết mục biểu diễn múa, ông Doanh thật sự bị mê hoặc vẻ đẹp và khả năng trình diễn của diễn viên Đỗ Thị Ngọc Bảo quê Hà Nội. Ông tâm sự: “Khi đó, người Hà Nội không nhiều, nên tôi đã lấy cớ đồng hương để làm quen. Bà nhà tôi khi đó có một số người nhận đồng hương, trong đó tôi là người đầu tiên”.
Thời ấy, lãnh đạo đoàn văn công không khuyến khích nữ diễn viên yêu sớm vì lo ngại chị em lấy chồng sẽ khó khăn khi ra mặt trận biểu diễn. Bà Bảo bồi hồi nhớ lại: “Lúc ấy, tôi chưa biết thế nào là yêu nên rất giữ khoảng cách với các chàng trai”. Trong khi đó, chàng trung úy Hải quân không giấu được cảm xúc chếnh choáng sau lần đầu gặp gỡ cô văn công xinh đẹp. Tuy nhiên, thời chiến tranh, việc bày tỏ tình cảm không hề dễ dàng.
Ảnh cưới của ông Doanh và bà Ngọc Bảo.
Trong những năm tháng mưa bom bão đạn ác liệt, các diễn viên của Đoàn Văn công Hải quân cũng ra mặt trận và đi diễn ở nhiều nơi, ở nhiều chiến trường khác nhau như: Vĩnh Linh, Cửa Việt, Quảng Trị... “Từ một cô gái vốn sợ ma, sợ bóng tối, tôi phải tập làm quen với bom đạn, với sự khốc liệt ở chiến trường” - bà Bảo nhớ lại. Ra mặt trận, gặp không ít chàng trai và cũng không thiếu những thanh niên Hà Nội “nhận đồng hương”, nhưng trái tim cô diễn viên múa chỉ hướng về chàng trung úy trên đảo Vạn Hoa.
Không lời hứa, không hẹn ước, nhưng tình yêu của họ vẫn cứ lớn dần qua những cánh thư. Thế nhưng, việc ấy cũng không hề thuận lợi bởi trong thời điểm đó, từ các tỉnh khu 4 trở ra ngoài Bắc, địch thường xuyên đánh phá ác liệt, đặc biệt trong giai đoạn từ 1971 đến 1972. Ông Doanh tâm sự, có thời điểm nửa năm ông mới nhận được một bức thư của bà gửi về. Mặc dù vậy, cả ông và bà đều đặt trọn niềm tin vào tình yêu trong sáng cho dù bị ngăn cách bởi chiến tranh.
Ba năm trời đằng đẵng yêu nhau qua những cánh thư, đến tháng 11-1974, trong một lần gặp lại nhau ở hòn đảo Vạn Hoa, chàng sĩ quan trẻ Nguyễn Hữu Doanh và cô văn công Hải quân xinh đẹp Đỗ Thị Ngọc Bảo đã tổ chức đám cưới giản dị thời chiến. Trong ngày vui ấy, những ca khúc cách mạng "Cuộc đời vẫn đẹp sao", "Không cho chúng nó thoát"... được các ca sĩ nghiệp dư là cán bộ, chiến sĩ đơn vị hát vang để chúc mừng hạnh phúc cho đôi trẻ. Sau đám cưới ấy, ông Doanh lại theo các chuyến tàu lên đường đi công tác, còn bà Bảo tiếp tục mang những điệu múa ra mặt trận phục vụ bộ đội, góp phần xua tan sự khốc liệt của đạn bom trên chiến trường.
Hiện, ông Doanh và bà Bảo đang sống hạnh phúc, đầm ấm trong căn hộ giản dị tại quận Nam Từ Liêm (Hà Nội). Giờ đây, mỗi khi nhớ lại những năm tháng cống hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân cho Tổ quốc và tình yêu trong sáng, giản dị, lãng mạn của người lính, cả ông và bà đều bồi hồi, xúc động, tự hào về thời trai trẻ đã qua...
Bài, ảnh: MẠNH THẮNG