Tại hội thảo, các nhà khoa học thuộc nhóm nghiên cứu cho rằng, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành với đồ uống có cồn – phương pháp thuế tương đối - được đánh giá là chưa thực sự hiệu quả trong việc giảm lượng tiêu thụ đồ uống có cồn, bảo vệ sức khỏe người dân cũng như bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, nhất là khi khu vực đồ uống có cồn phi chính thức vẫn đang chiếm tới 63% tổng khối lượng lít cồn nguyên chất được tiêu thụ.

Ngoài ra, thuế tương đối cũng không phù hợp với thực tiễn quốc tế khi phần lớn các nước phát triển, các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á đã chuyển sang thuế tuyệt đối (tính trên lít cồn hoặc lít sản phẩm) hoặc thuế hỗn hợp (kết hợp giữa thuế tương đối và thuế tuyệt đối).

Mặt khác, ở Việt Nam hiện còn thiếu các nghiên cứu định lượng nhằm chỉ ra mô hình thuế nào là phù hợp, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu chính sách và quan trọng hơn, tác động của mô hình đó đối với giảm mức tiêu thụ ra sao, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách như thế nào. 

Toàn cảnh hội thảo. 

Theo kết quả nghiên cứu, từ 2010-2018, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia được điều chỉnh liên tục tăng nhưng tỷ lệ người lạm dụng rượu, bia vẫn tăng cao, tỷ lệ người không sử dụng giảm. Lượng đồ uống có cồn tiêu thụ ở Việt Nam trong cả khu vực chính thức lẫn phi chính thức đều có tốc độ tăng rất nhanh. Nếu như năm 2003-2005, lượng đồ uống có cồn tiêu thụ ở Việt Nam chỉ đạt trung bình 3,8 lít/người/năm thì năm 2008-2010 con số là 6,6 lít và năm 2015-2016 là 8,3 lít.

Như vậy, trong khoảng 10 năm, lượng tiêu thụ rượu, bia bình quân một người trong năm đã tăng hơn gấp đôi. Tỷ lệ người lạm dụng rượu, bia trên tổng dân số cũng tăng từ 1,4% năm 2010 lên tới 14,4% năm 2016.

Trong nghiên cứu này, CIEM đã thực hiện kiểm chứng hiệu quả của phương pháp đánh thuế hỗn hợp so với thuế tương đối tại Việt Nam thông qua các tính toán định lượng dựa trên mô hình thuế của Đại học Charles Sturt (Australia), nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê và Tổ chức Nghiên cứu Rượu Quốc tế (IWSR).

Kết quả nghiên cứu chỉ ra tính ưu việt của mô hình thuế hỗn hợp – kết hợp phương pháp thuế tương đối trên giá bán buôn và phương pháp thuế tuyệt đối trên từng lít sản phẩm tiêu thụ hoặc lít cồn nguyên chất – so với phương pháp thuế tương đối hiện hành trong việc giảm tiêu thụ đồ uống có cồn gây hại, ổn định nguồn thu ngân sách. Cụ thể, phương pháp thuế hỗn hợp sẽ giúp tăng thu ngân sách khoảng 25% so với phương pháp thuế tương đối hiện hành và mức tiêu thụ toàn ngành sẽ giảm 5%.

Tại hội thảo, TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế nhấn mạnh, việc lượng rượu phi chính thức đang chiếm tới 63% tổng khối lượng lít cồn nguyên chất được tiêu thụ tại Việt Nam “vừa thiệt thòi cho ngân sách nhà nước, vừa nguy hiểm cho sức khỏe người tiêu dùng”. Vì vậy, cần tăng cường hiệu quả quản lý đối với khu vực đồ uống có cồn phi chính thức và kết hợp nhiều giải pháp chính sách khác ngoài thuế để hạn chế lạm dụng đồ uống có cồn một cách hiệu quả.

Trong khi đó, đại diện Hiệp hội Bia, Rượu, Nước giải khát Việt Nam cho biết, các doanh nghiệp trong ngành chịu ảnh hưởng rất nặng nề của đại dịch Covid-19 và đang đối mặt với khó khăn về nguồn nguyên liệu và chi phí sản xuất gia tăng do xung đột tại Ukraine. Mong muốn của doanh nghiệp lúc này là Nhà nước ổn định chính sách thuế, trước mắt chưa tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có cồn trong 2 năm 2022 và 2023 để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và nuôi dưỡng nguồn thu.

Tin, ảnh: QUỲNH PHƯƠNG