Chỉ 3 ngày sau lễ thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã xuất quân đánh thắng hai trận Phai Khắt và Nà Ngần, mở ra truyền thống “đánh thắng trận đầu” và “đã ra quân là chiến thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong hai trận đó, Đội đã vận dụng cách đánh hóa trang kỳ tập, mở đầu cho việc vận dụng sáng tạo các hình thức chiến thuật độc đáo và hiệu quả. Kế thừa những tinh hoa nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc, qua 80 năm chiến đấu và chiến thắng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam độc đáo, sáng tạo lên tầm cao mới ở cả ba cấp độ: Chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật.
 |
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Đỉnh cao nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ảnh: nhandan.vn |
Về chiến lược quân sự, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn dân biết mở đầu chiến tranh và cũng chủ động kết thúc chiến tranh đúng thời cơ. Cuối năm 1946, trước tình thế không thể nhân nhượng được nữa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc đã giam chân địch gần 2 tháng để chuyển đất nước vào chiến tranh, chuẩn bị các điều kiện để kháng chiến lâu dài. Năm 1953, khi thế và lực đã mạnh hơn, Trung ương Đảng chủ trương sử dụng các “quả đấm chủ lực”, phối hợp các mặt trận, các chiến trường, tiến hành chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước kẻ thù vượt trội về tiềm lực kinh tế, quân sự, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là Tổng Quân ủy (sau là Quân ủy Trung ương), Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh đã chủ trương từ đồng khởi tiến lên chiến tranh cách mạng. Quá trình kháng chiến, Quân đội ta đã vận dụng nghệ thuật giành thắng lợi từng bước, thay đổi dần thế và lực. Ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, đánh vào ý chí xâm lược của Mỹ, tổ chức cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, phối hợp với các chiến trường Lào, Campuchia, tổ chức đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng (12-1972), buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi miền Nam. Sau khi “Mỹ cút”, tương quan lực lượng thay đổi, quân và dân cả nước tạo thế, tạo lực, nắm thời cơ, đầu năm 1975 chủ động kết thúc chiến tranh với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam đã vận dụng nhiều chiến lược quân sự độc đáo, sáng tạo, như: Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, đánh địch bằng tất cả vũ khí, trang bị hiện có... Trong chiến tranh nhân dân, quân và dân ta lại phát triển thêm nhiều nét đặc sắc như: Chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển, trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, trên mặt trận phòng không nhân dân... Đó còn là nghệ thuật kết hợp giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, giữa chiến trường chính với các chiến trường phối hợp, giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương, dân quân, du kích. Nghệ thuật vận dụng linh hoạt “thế, lực, thời, mưu”; dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế tạo sức mạnh tổng hợp giành chiến thắng…
 |
Bộ đội bao vây đánh địch trong Chiến dịch Hòa Bình năm 1952. Ảnh tư liệu |
Nghệ thuật chiến dịch có phát triển rõ nét trong hai cuộc kháng chiến. Năm 1947, Quân đội ta đã tiến hành thành công chiến dịch phản công Việt Bắc, đánh bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch. Các loại hình chiến dịch phát triển từ thấp đến cao, cùng với sự phát triển về tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị và trình độ tác chiến của Quân đội. Nghệ thuật sử dụng, điều hành chiến dịch ngày càng hoàn thiện. Quy mô các chiến dịch ngày càng phong phú, có nhỏ, vừa và lớn; có chiến dịch mang ý nghĩa chiến lược (chiến dịch chiến lược). Loại hình, địa bàn tiến hành chiến dịch ngày càng đa dạng. Trong hai cuộc kháng chiến, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiến hành nhiều loại hình chiến dịch như: Tiến công, phản công, phòng ngự, tiến công tổng hợp, phòng không…, trong đó “có gần 98% tổng số các chiến dịch là chiến dịch tiến công và chiến dịch phản công”[1].
Sự phát triển về nghệ thuật tác chiến chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, chọn hướng (khu vực), mục tiêu, đối tượng tác chiến đúng, phù hợp với khả năng của ta. Trong Chiến dịch Biên giới 1950, ta chọn nơi địch phòng ngự mỏng yếu, kéo địch ra khỏi công sự để tiêu diệt. Khu vực rừng núi biên giới phù hợp với lối đánh sở trường của ta và đã giành thắng lợi to lớn. Các chiến dịch Trị Thiên - 1972, Tây Nguyên - 1975, Hồ Chí Minh - 1975, ta đã đột kích vào nơi phòng ngự mạnh, làm rung chuyển toàn bộ thế trận phòng ngự của địch, tạo phản ứng dây chuyền dẫn đến sụp đổ.
Hai là, cách đánh chiến dịch của Quân đội ta là cách đánh của chiến tranh nhân dân phát triển cao, vận dụng tổng hợp cách đánh của nhiều lực lượng; kết hợp nhiều phương thức và quy mô tác chiến (đánh du kích, đánh vận động, đánh trận địa; đánh phân tán, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng; đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn…); tạo ưu thế hơn hẳn địch ở những thời điểm, địa bàn, những trận then chốt, then chốt quyết định để giành thắng lợi.
Ba là, tạo lập thế trận tác chiến chiến dịch của ta đi đôi với phá thế trận của địch. Đặc biệt, nét nổi bật của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam là nghi binh lừa địch, giữ bí mật bất ngờ trong chuẩn bị và thực hành chiến dịch; bảo toàn được lực lượng ta, có điều kiện thời cơ để tạo lập và chuyển hoá thế trận linh hoạt, vững chắc, nhanh chóng giành thắng lợi. Chiến dịch Tây Nguyên - 1975 là điển hình về nghệ thuật nghi binh, tạo lập thế trận ta, phá thế trận địch.
Bốn là, tổ chức, sử dụng lực lượng chiến dịch phát triển từ nhỏ đến lớn; từ đơn giản đến phức tạp, mang tính tổng hợp ngày càng cao, gắn với quá trình phát triển, trưởng thành của lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, đặc biệt là bộ đội chủ lực, cả về tổ chức biên chế, trang bị, trình độ, khả năng tác chiến. Nhìn chung, ta luôn chú trọng sử dụng đúng vị trí, chức năng, sở trường của từng lực lượng, từng thứ quân, từng đơn vị, từng loại vũ khí, có sự phối hợp chặt chẽ tạo sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi.
Năm là, trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến chiến dịch phát triển ngày càng hoàn thiện. Những chiến dịch quy mô lớn, mang ý nghĩa chiến lược hoặc những chiến dịch chiến lược thường do cấp chiến lược tổ chức chỉ huy. Những chiến dịch quy mô nhỏ, quy mô vừa thường do cấp chiến trường, quân khu tổ chức. Song dù cấp nào tổ chức, chỉ huy điều hành cũng đều tuân thủ nguyên tắc lãnh đạo của Đảng trong các chiến dịch: Thành lập Đảng ủy chiến dịch, tổ chức Bộ Tư lệnh chiến dịch và các cơ quan chỉ huy, chỉ đạo chiến dịch. Trong Bộ Tư lệnh chiến dịch luôn có thành phần cán bộ chính trị, quân sự, quân, binh chủng và lãnh đạo địa phương trên địa bàn chiến dịch, để phát huy cao nhất khả năng chỉ huy, phối hợp, hiệp đồng, phát huy sức mạnh giành thắng lợi.
 |
Bộ đội ta hành quân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Ảnh tư liệu |
Về chiến thuật, Quân đội ta đã kế thừa và phát triển nghệ thuật quân sự độc đáo của tổ tiên lên tầm cao mới với các hình thức: Tiến công, phòng ngự, tập kích, phục kích, vận động tiến công, truy kích, tiến công trong hành tiến... Cùng với sự phát triển của các binh chủng, quân chủng, Quân đội ta đã sáng tạo, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật mới phù hợp với điều kiện tác chiến của chiến tranh hiện đại, điều kiện thực tế chiến trường và từng binh, quân chủng. Trong mỗi hình thức chiến thuật cũng đều có sự phát triển, biến hóa và kết hợp nhịp nhàng các hình thức chiến thuật để tạo hiệu quả cao trong chiến đấu. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ - 1954, Quân đội ta đã sử dụng kết hợp rất nhiều hình thức chiến thuật: Tiến công, đánh lấn, bao vây, chiến tranh hầm hào…, với tổng kết “vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt” độc đáo.
Trong kháng chiến chống Mỹ, để đối phó với các cuộc đổ bộ đường không của địch, ta đã tìm ra cách đánh phù hợp, hiệu quả và phát triển chiến thuật đánh địch đổ bộ đường không lên đỉnh cao, giăng sẵn trận địa, dụ địch, tạo thế, buộc địch nhảy dù, đổ bộ vào trận địa ta bố trí sẵn. Tiêu biểu là các trận đánh trong Chiến dịch Plây Me - 1965 và trận đánh địch phản kích trong Chiến dịch Tây Nguyên - 1975. Trong chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng - 1972, ta đã vận dụng hình thức chiến thuật đầy sáng tạo - phòng ngự tích cực, góp phần giành thắng lợi cho chiến dịch.
Chiến thuật của Quân đội ta phát triển từ thấp đến cao, từ du kích lên chính quy; từ quy mô trung đội, đại đội lên quy mô trung đoàn, sư đoàn; từ các trận chiến đấu của bộ binh tiến lên chiến đấu hiệp đồng quân, binh chủng; từ những trận đánh tiêu hao, tiêu diệt nhỏ tiến lên đánh những trận tiêu diệt lớn từng trung đoàn, sư đoàn địch; từ những trận đánh nhỏ lẻ, độc lập tiến lên đánh nhiều trận theo một kế hoạch, ý định thống nhất của chiến dịch, đợt hoạt động; từ đánh đêm là chính tiến lên đánh cả ban ngày và đánh liên tục dài ngày; từ chủ yếu đánh ở rừng núi tiến lên đánh địch ở mọi loại địa hình; từ chỗ chỉ có một số hình thức như phục kích, tập kích, phòng ngự bằng điểm chốt tiến tới sử dụng nhiều hình thức chiến thuật phong phú, đánh được nhiều đối tượng tác chiến dù chúng phòng ngự trong công sự vững chắc, hành quân càn quét, đổ bộ đường không, tạm dừng khi hành quân, hay trú quân trong sào huyệt...
Quán triệt sâu sắc đường lối, tư tưởng quân sự của Đảng, kế thừa tinh hoa truyền thống đánh giặc của dân tộc; học tập và vận dụng có chọn lọc những kinh nghiệm quân sự tiên tiến của các nước anh em, của thế giới vào điều kiện Việt Nam; Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển nền nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo, thể hiện tính cách mạng và tính khoa học, tính dân tộc và tính hiện đại, vừa phản ánh những quy luật của chiến tranh và đấu tranh vũ trang cách mạng; vừa mang những nét độc đáo Việt Nam, góp phần hình thành một nền nghệ thuật quân sự Việt Nam tiên tiến và hiện đại.
Đại tá, TS PHAN SỸ PHÚC, Viện Lịch sử Quân sự
[1] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam 1945 - 1975, Nxb QĐND, Hà Nội, 1995, trang 655.