Tôi nhớ về câu thơ buồn của Thu Bồn-nhà thơ nổi tiếng từng công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội: “Ta cũng là trăng luôn mắc lưới/ Vớt lên ướt hết nửa cuộc đời”. Có một thân hình cường tráng, ăn sóng nói gió, khỏe mạnh, vâm váp, sau khi đi hết mối tình với người vợ đầu có hai đứa con, thêm vài cuộc hôn nhân nữa nhưng Thu Bồn không dám có con, vì di chứng chất độc da cam đã ngấm vào trong xương tủy... Ai cũng đau khi đọc lại hồi ký của ông: “Nhiều năm, hai cha con tôi ở trong một căn phòng nhỏ... Cháu bị nhiễm chất độc da cam nên phải đi bệnh viện. Một đêm tháng mười hai lạnh như dao cắt, cháu đã trút hơi thở cuối cùng tại giường bệnh 108... Tôi vuốt mắt con, ôm cái thân xác lạnh ngắt đau đớn đi từng bước một xuống cầu thang nhà xác...”. Đứa con ấy tên Hà Đức Hùng, theo nhiều người kể lại, đẹp “như một thiên thần”, thế mà ra đi ở tuổi trăng tròn 16. Cháu siêu thoát lên trời nhưng để lại nỗi đau khôn cùng cho ba mẹ và người thân. Nhà thơ Thu Bồn viết: “Ba chôn sâu trong lòng đất/ Kỷ niệm đau buồn cuộc chiến đấu của ba!”.
 |
Minh họa: MẠNH TIẾN. |
Năm 1971, thời điểm ác liệt nhất ở chiến trường khu V, vợ chồng Thu Bồn được bác sĩ cho biết con trai mắc bệnh ung thư máu. Chỉ còn cách đưa ra Bắc. Thu Bồn lấy cái ba lô, đục thủng hai lỗ cho con trai vào đó, hai chân con thòi ra, cùng vợ (đang mang thai) rời căn cứ Núi Bà. Theo đường mòn Trường Sơn, cả nhà đi bộ ròng rã hơn hai tháng...
Trong văn xuôi của các nhà văn chiến trường như Nguyễn Trọng Oánh, Nam Hà, Lê Lựu, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Bảo, Trung Trung Đỉnh... cũng đã miêu tả đó là thứ chất độc được máy bay Mỹ thả xuống Trường Sơn như một thứ sương mù. “Quá mù ra mưa”, sương đọng lại thành giọt rơi xuống. Bộ đội phải lấy áo bạt che như che mưa. Chưa ai biết đó là thứ vũ khí chết người cực kỳ nguy hiểm. Sau năm 1975, nhiều bộ đội về quê lấy vợ, đến khi sinh hạ “vợ thì tròn” nhưng “con chẳng vuông” cũng không biết đấy là di chứng da cam. Y học cũng chưa biết...
Khi nhân loại nhận ra bộ mặt của tội ác thì nỗi đau, sau bao ngày dồn chặt, như bùng lên. Đúng với tính chất, đặc trưng thể loại, thơ và ký vào cuộc sớm nhất.
Đi từ trong chiến tranh ra, một câu thơ tự thuật nhức nhối của Phùng Khắc Bắc: “Mang những tế bào lạ mỉm cười thâm trầm trong máu” (Một chấm xanh). Nhà thơ Hoàng Việt Hằng có người chồng tài năng là nhà văn Triệu Bôn. Anh đi bộ đội đánh Mỹ, ở rừng ra, bị sốt rét và nhiễm chất độc chiến trường. Anh bị ốm, chị là người chăm: “Từ ngày anh ốm thừa ra/ Người đàn ông ở trong nhà là em” (Không đề năm 2000). Anh mất. Chị “một đèn một bóng”, lẻ loi trong nỗi nhớ quặn lòng: “Em lau hăng gô, nhìn cái rút dép/ Kỷ vật một thời gắn bó với anh/ Thư viện nhà mình còn góc chiến tranh/ Còn hơi thở của em dành cho ký ức” (Phía trong cánh cửa). Không có chiến tranh, không có tội ác của kẻ xâm lược, những người phụ nữ như nhà thơ Hoàng Việt Hằng sẽ hạnh phúc bên chồng con để viết những câu thơ yêu thương và hòa bình...
Lên án và kết tội tội ác cũng là một cách xoa dịu nỗi đau, để nhân loại nhìn thấy bản chất giết người mà cùng nhau cảnh giác, cũng là cách kêu gọi sự chia sẻ đồng cảm. Nhà thơ Lưu Sơn Tự trong trường ca “Đường tới những mùa xuân” (NXB Văn học 2009) vạch rõ tính chất phi nhân của kẻ thủ ác: “Bằng chất da cam/ Lấy cánh rừng và người Việt Nam/ Làm thử nghiệm/ Có phải chúng muốn nơi này trở lại hoang sơ?/ Không sự sống, chất chồng đau đớn/ Chúng muốn người không phải người/ Động vật không phải động vật/ Cỏ cây không phải cỏ cây”. Như vậy kẻ ác này không có tính người, chúng là quỷ dữ. Là quỷ dữ mới làm chuyện “diệt chủng” như vậy: Diệt chủng con người, diệt chủng loài vật, diệt chủng cây cối!
Trực tiếp cầm súng trên chiến trường, người lính- nhà thơ Nguyễn Đức Mậu có những quan sát rất tiêu biểu, điển hình về tội ác chất độc da cam (trong trường ca “Mở bàn tay gặp núi” (NXB Quân đội nhân dân 2010): “Rác chiến tranh thấm vào cây vào đất/ Cả cánh rừng nhiễm độc trắng tàn tro/ Khi uống giọt sương/ Con chim giẫy chết/ Dòng suối chảy qua đêm/ Xác thú vật vờ”. Hết chiến tranh, một người mẹ mong mỏi con trai làm điểm tựa khi về già. Nhưng mẹ sao an lòng khi hình hài con mình bị biến dạng. Mẹ cũng chưa thể biết chất độc ngấm vào người con nên có khi “lá vàng” còn ở trên cây mà “lá xanh” lại rụng. Ý thơ nhức nhối: “Mẹ cả nghĩ, tuổi già mẹ làm sao sống được/ Khi mỗi sớm mai nhìn mặt con mình/ Khuôn mặt con-ngày hòa bình đời mẹ?/ Chiến tranh thấm vào mỗi tế bào, cái chết kề bên”. Còn những bi kịch đắng xót khác: “Có những trẻ thơ/ khuyết tật dị hình/ Đám mây đen màu da bỏng rộp/ Màu da dường cháy khét lửa diêm sinh/ Người lính đi qua vùng bom hóa học/ Khói chiến tranh đen/ thấm vào máu anh hồng/ Con anh/ đứa chết tuổi lên ba/ đứa mang thương tật/ Màu da con anh màu khói bom trải dọc/ cánh rừng...”. Tưởng rằng may mắn tránh được cái chết nhưng chiến tranh lại nhẫn tâm muốn giết chết anh trong thời bình, chết trong bi kịch bố mang mầm bệnh, con tàn tật, cả hai chết dần, chết trong nỗi đau thân xác và giằng xé tinh thần...
Tuy là thể tài mang tính ghi chép nhưng với đối tượng giàu có hàm lượng trữ tình thì bút ký phát huy hết sở trường năng động, cập nhật. Như dòng sông ào ạt chảy giữa đôi bờ hiện thực mới mẻ và tình cảm thiết tha, nó chinh phục bạn đọc bằng cả nhận thức lý trí và giáo dục nhân văn. Minh Chuyên đã đi đúng cái mạch này để có những tác phẩm mang hiệu ứng xã hội cao. Là người lính ở chiến trường 10 năm, từng bị thương và bị nhiễm chất độc, nhà văn viết về nạn nhân chất độc da cam như là viết về mình, cho mình với “Nước mắt làng”, “Đứa con màu da thú”, “Di họa chiến tranh”, “Những linh hồn da cam”... Là người sớm nhất vẽ những bức chân dung dị dạng, khuyết thiếu của những nạn nhân da cam bằng nước mắt của trái tim nặng trĩu nỗi đau, những ám ảnh từ những áng văn của Minh Chuyên còn lay động cả những trái tim nhân tính từ chính nước Mỹ... Ông còn viết kịch bản, làm đạo diễn phim có thành tựu về chủ đề này.
Người Việt giàu yêu thương, vị tha, đại nghĩa. Họ buộc phải cầm súng và sẵn sàng hy sinh khi có kẻ thù đến xâm lược mảnh đất yêu thương của họ. Hầu hết các nhà thơ, nhà văn Việt Nam đều ở tầm cao bao dung để phẫn nộ, lên án những kẻ ác đầu độc, hãm hại con người đến mấy thế hệ, đều thể hiện cháy bỏng một khát vọng hòa bình hướng về ngày mai bình yên, an lành, tốt đẹp. Họ chung một lối ứng xử nhân văn giống nhau như trong bộ phim “Cha con người lính” của Minh Chuyên. Trên cơ sở kể về 3 thế hệ cha-con-cháu bị ảnh hưởng chất độc da cam, ban đầu bộ phim này mang thông điệp nỗi đau và lòng căm hận. Nghĩ kỹ điều ấy đúng với logic tỉnh táo nhưng không đúng với bản sắc Việt, nhà văn thay một kết cấu khác hẳn hướng tới ý nghĩa vượt qua nỗi đau bằng sự cộng cảm và đồng cảm từ cả hai phía, gác lại hận thù để gắn nối và gắn kết cùng nhau. Người lính phi công Mỹ từng rải chất độc đã tìm đến nhà người cựu chiến binh Việt Nam, đưa người con tật nguyền sang Mỹ chữa trị. Kết phim là hình ảnh con gái người cựu binh-nạn nhân dioxin giang tay ôm người lính Mỹ... Cả một chân trời sáng rỡ tinh thần nhân văn mở ra... Không có lời hát mà người xem như nghe thấy tiếng hát: “Em mong sao không có nước mắt rơi chia lìa/ Em mong sao trên trái đất hoa thơm nở bốn mùa/ Em mong sao trên trái đất mỗi con người/ Ѕống để yêu thương giữ đẹp trái đất xanh”... Phải chăng được xem bộ phim này mà một nhà văn Mỹ (Helen Keler) đã viết: “Tôi đã khóc khi không có giày để đi, cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đi giày”, thì đó là sự chứng minh cho triết lý vĩnh cửu bỏ qua hận thù, hóa giải nỗi đau cùng nhau hướng về tình người và hòa bình.
Là tiếng nói của lịch sử, tiếng nói của cuộc sống, tiếng nói của lương tâm thời đại, với sứ mệnh của mình, văn chương sẽ lên tiếng mạnh mẽ, khẩn thiết hơn về nỗi đau da cam. Thơ và ký đã làm tốt nhiệm vụ của mình, nay cần thêm những áng văn mới từ tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch. Ngay ở thể tài ký, độc giả cũng chờ đón thêm những trang tùy bút đậm đà cảm xúc về những thân phận, những cảnh đời éo le, bất hạnh... Nhưng đúng với tâm hồn Việt “còn da lông mọc, còn chồi nẩy cây”, luôn hướng về ánh sáng và niềm tin, những trang văn ấy không chỉ dừng lại gợi một lòng thương cảm, một chút tâm tình sẻ chia. Quan trọng hơn là tiếp thêm nghị lực sống, tình yêu đời, sự khát khao cháy bỏng vươn lên nghịch cảnh, làm chủ hoàn cảnh để trở thành con người đích thực, con người viết hoa, con người có ích cho xã hội.
Văn chương, xét đến cùng là để nói về con người, nhất là nỗi đau của con người thì càng là đích đến của văn chương. Thế nên hình tượng nỗi đau mang di chứng chất độc da cam/dioxin là một trong đề tài được quan tâm, chú ý. Độc giả trong và ngoài nước đang chờ đón, mong mỏi có nhiều hơn những hình tượng nghệ thuật về chủ đề này được viết lên từ các nhà văn Việt Nam. Ngoài những tấm gương có thực ngoài đời, cần thêm những hình tượng mới được hư cấu, sáng tạo để nói một cách đúng nhất, sinh động nhất, truyền cảm nhất về nỗi đau ấy, cách chung tay khắc phục, sự vươn lên để nói lên được tinh thần Việt nhân văn và dũng cảm, khí phách và đầy tự trọng...
Tôi nhớ về một đoạn trường ca của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu kể về sự gặp gỡ của các nhà văn Mỹ trước đây đều làm lính xâm lược ở Việt Nam và nhiều nước khác. Mỗi người kể câu chuyện của mình: “Nhà văn da đỏ vung tay, hét lớn/ -Tôi rải thuốc độc giết đất giết người/ Người bị giết cũng là tôi/ Có nhiều đêm trong mơ tôi gặp/ Một rừng cây thân đen, lá xám/ Một đoàn người nhấp nhô xương trắng/ Có phụ nữ, người già và trẻ nhỏ mồ côi...” (Mở bàn tay gặp núi). Họ chung bi kịch là bị lừa vào cuộc chiến tranh để gây tội ác. Nay họ đang viết về nỗi đau trong sám hối và cầu nguyện...
Đó cũng là một hướng đi mở cho văn chương Việt Nam: Làm cầu nối gắn kết nỗi đau với nỗi đau trên khắp thế giới để tất cả cùng nhau nhìn về ngày mai tươi sáng!
Nhà văn, PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ