Ngày tôi còn là một cậu bé, mỗi khi theo mẹ ra đồng, lúc đi trên cây cầu luồng qua sông, mẹ thường nói “Con bao nhiêu tuổi, thì con sông Châu Thành này bấy nhiêu tuổi đấy”. Quả thực, mới đầu khi mẹ dắt qua cầu, trong tôi chỉ có cái cảm giác vừa thích thú, vừa sợ hãi, vì cây cầu mỏng manh, vắt vẻo, chứ chưa quan tâm đến tên con sông và tuổi của nó cùng tuổi với mình. Sau này học lên lớp 4, khi làm văn tả cảnh về con sông quê hương, tôi mới thực sự quan tâm tới tên tuổi của nó. Việc này được cậu ruột tôi là Phan Văn Nghiêm giảng giải rất có hồn, rành rẽ. Chuyện về đào sông, chuyện vì sao con sông mang tên Châu Thành qua lời kể của cậu, của mẹ, ông Luật, bác Năm, ông Thu,… đã nhanh chảy trong tôi một dòng cảm xúc, để rồi chảy vào bài văn của cậu học trò lớp 4, được cô giáo cho điểm 9, sau đó được in trong tập những bài văn hay của học sinh Nam Định.

Nơi con sông Châu Thành chảy vào Nam Trực. 

Dòng cảm xúc ấy khởi nguồn… Đầu năm 1960, với khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, các địa phương miền Bắc đồng loạt kết nghĩa với các địa phương miền Nam. Tỉnh kết nghĩa với tỉnh, huyện kết nghĩa với huyện, trong đó tỉnh Nam Định kết nghĩa với tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang), huyện Nam Trực “nên duyên” cùng huyện Châu Thành.

Ngày ấy, diện tích cấy lúa, trồng màu của huyện Nam Trực có số lượng lớn thuộc dạng “chiêm khê, mùa thối”. Có những cánh đồng ở vùng cao, vụ chiêm cứ khô cháy như sa mạc. Ngược lại, nhiều cánh đồng “thẳng cánh cò bay”, nhưng một năm chỉ cấy được một vụ chiêm, còn vụ mùa như “biển hồ”. Bởi thế, năng suất và sản lượng lương thực thu được của Nam Trực rất thấp, hằng năm vẫn chẳng đủ ăn.

Thực hiện công cuộc xây dựng XHCN ở miền Bắc, trong đó nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Trong gieo trồng thì người xưa đã đúc kết “Nhất nước…”. Vậy là từ thực trạng đồng đất quê hương, từ “cái đầu”, cái “nhất”, các cấp, các ngành đã nhìn tỏ, lòng dân đã đồng thuận, để hình thành ngay dự án khai một con sông dọc theo huyện Nam Trực. Thời đó, dự án này vào cỡ trọng điểm cấp tỉnh. Dự án được thông qua mau lẹ, và tên con sông cũng được chọn tức thì - sông Châu Thành.

Tuổi thơ với sông nước Châu Thành. Ảnh Tô Binh 

Vậy là dòng tình cảm giữa hai địa phương, giữa hai miền Nam - Bắc đã khởi nguồn cho sông chảy từ khi còn thai nghén, từ khi “chưa có nước chảy qua”. Tên con sông cũng tăng dòng tình cảm, để nhân lên năng suất lao động, sức dẻo dai, vượt khó của tất cả các lực lượng tham gia đào sông. Hàng vạn thanh niên trẻ, khoẻ của toàn huyện và các địa phương tăng cường dàn ra toàn tuyến, hơn 15km. Thời đó còn lạc hậu lắm, việc đào sông hoàn toàn bằng sức người, mai, móng. Dẫu thật vất vả, ai cũng lấm lem bùn đất, nhưng không khí khai sông vui như hội.

Bác họ tôi là Tô Văn Giảng, người con trai duy nhất của gia đình, nhưng tháng 6-1961 đã viết đơn tình nguyện nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Trước ngày lên đường, bác vẫn hăng hái làm thêm một ngày thủy lợi đào sông. Vậy mà, bác vào trận khi con sông còn dang dở, bác ngã xuống khi con sông đã thông dòng. Nhận giấy báo tử con, thân mẫu của bác là cụ Trần Thị Sẻ, đau đớn khóc than ở bến sông “Giảng ơi, con sông Châu Thành đã đầy nước, đầy cá tôm, sao con không về bơi lội cho thỏa sức trai, cho bù lại những ngày đào sông vất vả… Về đi con, về mà ra sông đánh dậm, bắt cá cho mẹ đi chợ Xám bán, Giảng ơi…”.

Bên bến sông quê, người mẹ liệt sĩ bao lần than khóc, gọi con, người làng tôi ai nghe cũng nghẹn lòng…

Nhiều lần mẹ tôi nói, con sông Châu Thành cùng tuổi với tôi, chỉ thế thôi, chứ chưa bao giờ nói một chuyện e ngại. Mãi sau này khi tôi học lớp 9 mới nghe bác Trần Văn Năm kể lại “Ngày khai sông, mẹ cháu hăng lắm. Bụng mang dạ chửa cháu vượt mặt, mặc dù đã được miễn thủy lợi, nhưng bà ấy vẫn xung phong đi đào sông Châu Thành. Có nghĩa là cháu cũng tham gia đào con sông tình nghĩa này!”.

 Cựu chiến binh Tiểu đoàn 2009B Nam Định thăm lại chiến trường xưa ở tỉnh Mỹ Tho (nay là Tiền Giang). Ảnh Minh Trí

Nghe bác Năm kể, tôi quá bất ngờ về việc “tham gia đào sông” của mình và thẹn thùng. Tôi bèn chữa thẹn: “Như vậy cháu là người có tội, làm giảm tốc độ đào sông, chứ đâu phải người có công tham gia khai sông Châu Thành, bác ạ”.

Ngay hôm đó, tôi về hỏi mẹ chuyện này. Mẹ cũng ái ngại khi nói với tôi “Năm ấy bố con đã đi bộ đội, ông nội thì chết đói từ năm 1945, bà nội đã già yếu, nên mẹ có tham gia một số buổi đào sông, để nhà mình được đóng góp một phần công sức khai con sông ý nghĩa này. Cũng thật may là mẹ con an toàn, chứ xảy ra chuyện gì thì thật khó nói với bà, với bố con ngoài mặt trận…”.

Nghe mẹ nói, tôi cứ rưng rưng, dường như thấy dòng Châu Thành thêm nặng phù sa tình nghĩa!

Với tình cảm sắt son với huyện Châu Thành, với miền Nam thân yêu, để đất quê ta cho nhiều thóc, nhiều khoai, hàng vạn con người đào sông năm ấy đã thực sự “làm việc bằng hai”, đã “vượt nắng, thắng mưa” để vượt tiến độ, kế hoạch đào sông. Giữa năm 1962, con sông Châu Thành dài hơn 15km, rộng gần 45m, chảy dọc huyện Nam Trực đã chính thức thông dòng, kết nối sông Hồng (qua cống Ngô Xá) với sông Ninh Cơ (qua cống Rõng).

Vậy là từ đó, huyện Nam Trực không còn những cánh đồng “chiêm khê, mùa thối”. Gần 10.000 ha canh tác của huyện được chủ động tưới tiêu. Năng suất lúa, màu ngày càng cao, “thóc nuôi quân” của huyện luôn vượt kế hoạch. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, huyện Nam Trực đã chi viện cho miền Nam gần 150.000 tấn lương thực, thực phẩm.

Tôi không được chứng kiến việc đào sông, nhưng được thấy, được hưởng bao thành quả con sông Châu Thành mang lại cho quê hương, là tưới tiêu chủ động, là không còn ngập lụt, là giao thông thủy bộ thuận lợi, là nguồn cá tôm phong phú, là cảnh quan nên thơ cho nhiều làng quê. Và nữa, sông góp phần vào thành tích và danh tiếng bơi lội mang tầm quốc gia, cả trước và nay.

Ngày trước, dân quê tôi ít người biết bơi lắm, nhưng từ khi có sông Châu Thành, thỏa sức cho mọi người, nhất là trẻ nhỏ và thanh niên tập bơi, tập lặn, tập đua thuyền. Từ vẫy vùng, tập luyện bơi lội ở sông Châu Thành, mà năm 1980 xã tôi có nhà vô địch giải truyền thống “Vượt sông Bạch Đằng”, đó là kình ngư Tô Văn Vệ. Có thời gian xã tôi góp sức cho các đội tuyển bơi lội của tỉnh, huyện và quốc gia hàng chục kinh ngư ở các hạng. Mới đây, sáng ngày 26-5-2025, cô giáo Nguyễn Thị Mai, giáo viên Trường tiểu học xã Hồng Quang đã dũng cảm lao ra giữa sông Đào (gần cầu Đò Quan) cứu vớt kịp thời một nữ sinh đang bị nước cuốn trôi. Nhiều đài, báo, mạng xã hội đã nói, đã viết về tấm gương quả cảm này. Tuy nhiên, chưa đồng nghiệp nào viết tình tiết này, đó là cô giáo tiểu học sinh ra và lớn lên ở thôn Tân Trại, ven sông Châu Thành. Từ nhỏ cô đã được ngụp lặn, dạn dày sông nước Châu Thành, được tập bơi, học kỹ năng cứu người đuối nước, rồi học thêm trở thành cô giáo thể dục. Cô cứu vớt thành công một mạng người từ tình đồng loại, lòng quả cảm và hẳn có kỹ năng bài bản được tôi luyện từ con sông quê hương. Hành động của cô giáo Nguyễn Thị Mai là trang giáo án sống động, giàu cảm xúc và năng lượng giáo dục, nhân văn.

Ngày trước, cầu qua sông Châu Thành “mỏng” lắm, lại toàn bằng luồng, bằng tre. Để bổ sung cho “cầu khỉ”, dọc theo dòng sông có thêm nhiều bến đò ngang. Dòng sông, bến nước, con đò ấy đã sớm tạo nguồn xúc cảm, mạch ngầm thơ văn, báo chí trong PGS, TS Nguyễn Hồng Vinh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, nguyên Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương), nguyên Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương.

Nhà ông cách sông Châu Thành chẳng xa. Thân phụ ông bao năm gắn bó với con đò, bến Cọ, đưa bà con quê mình đi làm đồng xa, đi chợ Mành, bán tương, mua sợi móc… Hình ảnh người cha phong trần, giãi dầm mưa nắng, sớm khuya để đưa khách qua sông, để mỗi ngày có thêm đôi ba hào, cùng người vợ tần tảo với ruộng vườn, nuôi đàn con vượt đói, học hành đã gieo vào ông đau đáu một niềm thương, rồi hóa thơ “Một thời sông nước Châu Thành/ Bóng cha phủ bóng con đò chênh chao”. Hình ảnh và lời ru của mẹ, khuyên nhủ của cha cứ thẳm sâu trong ông “Nhắc thêm ở chốn thị thành/ Chớ quên đồng lúa, con sông quê mình”. Bóng cha, hình mẹ luôn khắc đậm trong tâm hồn nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh và con sông quê hương. Con sông ấy thụ nước từ sông Hồng – dòng nước cả. Có lẽ vì thế mà chỉ từ khi nghỉ hưu đến nay ông đã cho ra 12 tập thơ và nhiều bài thơ in trên các báo. Quả là dòng thơ trong ông chảy mãi !

Ở miền Nam gọi những con sông nhỏ, sông đào là kênh. Biết con sông Châu Thành có cái tên giàu ý nghĩa mà kỹ sư Đặng Văn Hòa, cán bộ quản lý công ty khai thác công trình thủy lợi Nam Ninh đã “miền Nam hơn” về con sông. Trong câu chuyện với tôi, kỹ sư thuỷ lợi toàn nói là kênh Châu Thành, chứ không nói là sông. Không chỉ khi nói, mà tất cả các văn bản, tư liệu về con sông anh cung cấp cho tôi, cũng đều là cụm từ “kênh Châu Thành”. Theo kỹ sư Hòa, con kênh Châu Thành đã, đang và luôn phát huy tốt vai trò của một công trình thủy lợi, nhất là khi khí hậu trái đất có những biến đổi, khi mà xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, phức tạp. Kỹ sư mong muốn, cán bộ và người dân Nam Trực hãy yêu con kênh này bằng những việc làm thiết thực hơn, không để con kênh chở nặng phù sa nay lại chở nặng rác rưởi, túi nilon, để dòng kênh Châu Thành luôn nặng dưỡng chất trong lành.

Nhớ lại, đầu tháng 6-1994, khi tôi đang học ở Học viện Chính trị - Quân sự. Dịp đó được nghỉ 4 ngày, những học viên “miền Nam Định” đã mời một số anh em quê ở miền Nam về thăm quê mình. Khi xe khách Hà Đông - Hải Hậu về tới Cầu Vòi (xã Hồng Quang, huyện Nam Trực) chúng tôi xuống xe. Lúc chờ xe ôm để về nhà tôi, tôi chỉ xuống sông và nói với anh bạn là Đại úy Đoàn Thanh Xuân (sau là Thiếu tướng, Phó chính ủy Quân khu 9), rằng “Con sông kia mang tên Châu Thành, đặt theo tên huyện Châu Thành của tỉnh Tiền Giang của bạn đấy”. Từ ngạc nhiên, bất ngờ, anh bạn Xuân chuyển ngay sang xúc động, và hỏi luôn tôi: “Thế con đường này về nhà bạn là đường gì?”.

“Cũng là đường Châu Thành bạn ạ” - tôi trả lời vậy, giọng anh bạn lâng lâng “Thôi, bạn không cần gọi xe ôm nữa, để chúng ta được đi bộ trên con đường và ngắm con sông đều mang tên Châu Thành - quê tôi”. Thiếu tá Trần Quang Phương (nay là Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Quốc hội, quê ở huyện Đức Phổ (nay là thị xã Đức Phổ), tỉnh Quảng Ngãi) nghe chuyện này cũng bất ngờ và cảm động lắm, anh đồng ý ngay phương án đi bộ trên đường Châu Thành, dài hơn 1 km về nhà tôi. Vừa đi chúng tôi vừa nói về chuyện kết nghĩa giữa các địa phương hai miền thời đánh Mỹ, đó như một “chuyến du lịch kép” trên các miền quê Bắc - Nam, tươi vui mà lắng đọng.

Trước khi viết bài này tôi có điện thoại nói chuyện với Thiếu tướng, cựu chiến binh Đoàn Thanh Xuân. Vẫn như xưa, trong câu chuyện Thiếu tướng vẫn gọi tôi là đồng hương, cách gọi ấy bắt đầu từ hôm đi bộ trên đường Châu Thành, cách đây đã 31 năm.

Thiếu tướng, cựu chiến binh bày tỏ: "Khi còn công tác hay đã nghỉ hưu, cứ mỗi khi về huyện Châu Thành, tôi lại bồi hồi nhớ về con sông, con đường quê bạn mang tên Châu Thành. Cứ mỗi khi đi qua trường THCS mang tên Nam Định, ở phường 6, thành phố Mỹ Tho, tôi lại nhớ tới đường Chợ Gạo và chợ Mỹ Tho ở thành phố Nam Định, mà bạn đã đưa tôi tới thăm vào mùa hè năm ấy". Tướng quân cũng kể về những chuyến thăm lại chiến trường xưa của những cựu chiến binh Tiểu đoàn 2009B Nam Định, tại tỉnh Mỹ Tho trong kháng chiến chống Mỹ, chuyện cứ ấm áp tình đồng đội, tình người hai quê, xưa - nay, cũ - mới.

Sắp kết thúc cuộc điện thoại, giọng Thiếu tướng, cựu chiến binh đa cảm xúc: “Việc sáp nhập các địa phương và không còn cấp huyện là một chủ trương lớn, đúng đắn, chuẩn bị cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Song mình cũng bâng khuâng, ngậm ngùi là chỉ còn mấy ngày nữa thôi, không còn cái tên huyện Châu Thành, huyện Nam Trực nữa! Nhưng mình như được an ủi là con kênh Châu Thành, con đường Châu Thành sẽ còn mãi, chảy mãi ở Nam Định. Cảm ơn người Nam Trực, người Nam Định nhiều lắm. Dẫu tháng năm có qua đi, nhưng khi nghĩ về một thời trận mạc, về thời đất nước hai miền chia cắt, vẫn thấy dòng Châu Thành luôn ắp nước, đầy tình!”.

Bút  ký của TÔ THÀNH TUYÊN

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.