Và qua cuốn sách này càng hiện ra một Phan Quang lừng lững giữa đời văn, nghiệp báo, giữa sự nghiệp văn chương và nhiệm vụ của đất nước mà ông là một nhân chứng, một nhân vật đã có đóng góp ít nhiều công sức vào sự nghiệp này và trong các mối quan hệ hiện hữu đang ngời lên như một tấm gương cho các thế hệ sau chiêm nghiệm, học hỏi.
Với khoảng 30 bài, ông viết “Dưới ánh hoàng hôn” đã xuất bản trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng vẫn đầy ắp những sự kiện nổi bật và vấn đề đặc sắc Phan Quang muốn gửi gắm đến công chúng.
Phan Quang nổi tiếng với những tác phẩm văn học ông dịch đã tái bản nhiều lần, như “Nghìn lẻ một đêm” hơn 40 lần, “Nghìn lẻ một ngày” mới chuyển ngữ sau khi ông nghỉ hưu cũng đã in lại gần 20 lần, hay “Những ngôi sao ban ngày” bút ký đậm chất thơ của nhà thơ Nga Olga Berggoltz, rồi “Một mình giữa đại dương” viết cho bạn đọc trẻ là chính, in nhiều chục nghìn bản; tiếp đó là những công trình đồ sộ và công phu như “Sử thi huyền thoại Đông Tây”, “Nghìn lẻ một đêm và Văn minh A Rập”-một vấn đề khá mới mà ở Việt Nam hầu như chưa có nhà khoa học nào đề cập.
Lần này đọc Phan Quang qua “Dưới ánh hoàng hôn”, với chỉ 30 câu chuyện dài ngắn không đều, tôi cũng lại không khỏi bất ngờ vì nó quy tụ những tố chất nói trên và tiếp tục tỏa sáng.
Tôi trộm nghĩ, qua cuốn sách viết về cuối đời, Phan Quang không chỉ muốn gửi gắm bầu tâm sự với đời về sự nghiệp của mình mà dường như ông còn muốn chuyển giao cho thế hệ trẻ những tư tưởng sâu lắng, những câu chuyện đời thường mà vẫn ngời sáng phẩm chất nhân văn..., bởi hệ giá trị văn hóa dân tộc chỉ có thể tồn tại và phát triển thông qua quá trình giao lưu và truyền tải từ người này sang người khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng kia, từ thế hệ trước sang thế hệ sau.
Có thể coi cuốn “Dưới ánh hoàng hôn” như là chương cuối của quá trình chuyển giao, nhắn nhủ ấy với đời, với nghề khi ông đã chập choạng dưới ánh hoàng hôn, gần đất xa trời.
Ông viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã dẫn dắt, chỉ giáo ông trong nhiều năm khi Người còn tại thế với lòng kính trọng và biết ơn vô hạn. Viết về báo chí cách mạng đi theo con đường mà Bác Hồ đã vạch, không phải chỉ để ôn lại lịch sử mà Phan Quang đã “tóm” được cái thần rồi trải ra qua bài viết.
Phan Quang viết về Hồ Chí Minh-Người khai sinh, huấn luyện và chỉ hướng cho báo chí cách mạng Việt Nam, kể từ khi Người xuất bản Báo Thanh Niên số 1 ra ngày 21-6-1925. Đó là tờ báo có vai trò lịch sử chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và tổ chức tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo Thanh niên đã đặt đường ray cho con tàu báo chí cách mạng Việt Nam chạy từ cột số 0 đến tầm cỡ hoành tráng ngày nay; những tư tưởng của Người về báo chí chúng ta cần nhận thức kỹ càng hơn, thực hành và ôn luyện công phu hơn.
Phan Quang kể về Tố Hữu, nhà thơ cách mạng đã ghi dấu ấn vào cuộc sống của dân tộc ta qua một dịp hai người cùng làm một chuyến đi về thăm quê hương Thừa Thiên, Quảng Trị sau Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thông qua những câu chuyện kể lại từ một chuyến đi, Phan Quang còn bộc bạch tình cảm sâu đậm của mình với khúc ruột miền Trung.
Phan Quang viết về Chế Lan Viên, nhà thơ tài năng với tầm tư tưởng và đức độ, nhà báo chính luận, một sứ giả văn hóa đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp của dân, của Đảng trên lĩnh vực văn chương, báo chí. Chế Lan Viên trong lòng Phan Quang còn là người thầy và người anh, người bạn tri kỷ, cho nên những câu chuyện ông kể rất đời, chân thực, chứa chan tình nghĩa.
Phan Quang kể những câu chuyện gặp gỡ, mạn đàm với những cây đa, cây đề văn học như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Hà Minh Đức..., mà không quên giới thiệu các tác phẩm mới, những đồng nghiệp trẻ hơn mình về tuổi đời như Phạm Quang Nghị, Nguyễn Hồng Vinh, Phạm Quốc Toàn, Hồ Quang Lợi, Trần Phương Trà, Nguyễn Uyển, Vĩnh Trà... với tấm lòng trân quý, thân thương.
Qua “Dưới ánh hoàng hôn”, Phan Quang còn viết khá sâu về một số sự kiện văn hóa, ngoại giao, về các đồng nghiệp nước ngoài mà ông có dịp tiếp xúc, giao lưu. Những câu chuyện kể tưởng giản đơn nhưng lại mang tính biên khảo của một nhà nghiên cứu ham học hỏi, qua đó chúng ta có thể thấy thái độ nghiêm cẩn của một người cầm bút và những điều ông trải lòng lại có thể dùng làm nguồn dẫn liệu cho những ai quan tâm.
Cuốn sách được viết khi tác giả đã ngoài tuổi 90 càng nặng tình với quê hương Quảng Trị, miền quê nghèo mà anh dũng kiên trung, nơi sản sinh ra cho đất nước lắm nhân tài, cũng là nơi hun đúc cho đứa con nhỏ thuộc dòng họ Phan ở xã Hải Thượng trưởng thành và có được những phẩm chất của một Phan Quang tài ba, chính trực, một tầm vóc văn hóa. Tôi may mắn được đọc nhiều tập sách của ông, hầu như tập nào cũng ít nhiều thấm đậm hồn quê, cũng chan chứa nỗi niềm về miền đất “đến rồi, nhớ mãi”. Có lẽ vì thế mà chất văn, chất báo, chất triết luận hay phong cách làm việc và lối hành xử nơi ông không đưa đẩy, không gió chiều nào che chiều ấy, đậm chất mưu sinh, mà lúc nào cũng chân thực, ngồn ngộn tư liệu, đôi khi còn mơ màng nhịp hò đập bắp hay câu hò mái đẩy đầy tràn âm hưởng văn hóa miền Trung.
Lứa chúng tôi cách Phan Quang một thế hệ, đọc sách ông không thể không suy ngẫm về những gì ông muốn gửi lại và nhắn nhủ mình; và qua những chuyện ông kể, những điều ông viết, chúng tôi chiết xuất được ít nhiều nhựa sống, chất đời cho bản thân mỗi khi có hoài bão trở thành người cầm bút chân chính; rằng muốn nên nghiệp thì cần phải chắt chiu thời gian cho việc học hành, tích cóp kiến thức, vốn sống và rèn luyện cây bút, tu rèn nhân cách, bản lĩnh trong thực tiễn cuộc sống nghề nghiệp, mới có thể góp ích cho đời.
PGS, TS NGUYỄN VĂN DỮNG