Riêng về liệt sĩ, thật đã khó mà kể hết những bài thơ, những câu thơ xúc động mà chúng ta từng biết và nhiều khi thuộc nằm lòng từ thuở cắp sách tới trường, ấy là những “Viếng bạn” của Hoàng Lộc, “Núi đôi” của Vũ Cao, “Hãy nhớ lấy lời tôi” của Tố Hữu, “Cuộc chia ly màu đỏ” của Nguyễn Mỹ, “Nấm mộ và cây trầm” của Nguyễn Đức Mậu, “Khát vọng Trường Sơn” của Nguyễn Hữu Quý, “Lời thỉnh cầu ở Ngã ba Đồng Lộc” của Vương Trọng v.v.. và v.v..
Nhưng lúc này trong tôi trào dâng tình cảm xúc động, nhớ đến khôn nguôi một bài thơ, không hẳn là viết về ngưới lính, về cuộc ra đi, về liệt sĩ, mà là của một nhà thơ mà bản thân anh là người lính, đã ra đi chiến đấu rồi ngã xuống trên mặt trận bảo vệ Hà Nội trong trận "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không" lịch sử tháng 12-1972, ở lứa tuổi hai mươi. Đó là nhà thơ, liệt sĩ Vũ Đình Văn, chiến sĩ pháo phòng không, với bài thơ “Nửa sau khoảng đời” rất cảm động.
Với tôi, một bài thơ hay trước hết phải làm người đọc, người nghe xúc động bởi tình thơ, sau đó mới thích thú hoặc khâm phục tài thơ, chứ không phải là ngược lại. Ngay từ lúc bài thơ này mới ra đời, tôi đã thấy nó quá gần gũi với tâm thế của mình và có lẽ cả những người cùng hoàn cảnh với mình. Và bây giờ, sau nhiều năm đọc lại, bài thơ vẫn giữ nguyên đến tươi rói cái hồn của tuổi trẻ chúng tôi-một thế hệ thanh niên đã bước vào đội ngũ những người lính chiến khi vừa rời ghế nhà trường, chia tay với cuộc sống êm đềm của tuổi thơ và tuổi mới lớn, chia tay với mối tình đầu nồng nàn, mơ mộng...
Theo tác giả, cuộc chia tay ấy quyết liệt đến nỗi nó chia đôi cuộc đời ra làm hai nửa. Phải, những ai đã có một cuộc sống tương đối êm đềm, ấm áp cả về vật chất cũng như tinh thần-như thế hệ chúng tôi lớn lên ở miền Bắc sau hòa bình 1954, những năm 1960 “đỉnh cao muôn trượng” như trong thơ Tố Hữu, với cái tâm thế của những cậu học sinh, sinh viên bắt đầu có cuộc sống nội tâm phong phú của người trí thức trẻ thành thị - cái mà hồi chống Pháp gọi là “chất tiểu tư sản” - và tất nhiên không thể thiếu một mối tình mới nhóm cũng với một cô gái mà tâm hồn không còn mộc mạc thô sơ nữa... Những ai ở vào hoàn cảnh ấy sẽ thấy hết cái việc chia cuộc đời ra làm hai nửa trước và sau khi nhập ngũ như cách của nhà thơ trẻ Vũ Đình Văn ở đây là diễn tả rất đúng tâm thế của mình. Người viết đã không giấu được trong lời thơ một sự hụt hẫng, một cú sốc thực sự:
Cùng một dòng thư mà hai khoảng đời
Khoảng trước xa rồi. Ai còn nhớ nữa...
Chiến tranh, ngày lên đường làm người chiến sĩ dường như đã cắt rời thực tại với quá khứ, một quá khứ dù rất mới nhưng đã trở thành dĩ vãng chỉ đâu có một ngày, một giờ trước đó. Những tâm trạng như thế không thiếu trong bất cứ cuộc chiến tranh đông tây kim cổ nào, và hình ảnh con người trong những phút giây đảo lộn ấy thường hoang mang, sụp đổ, như trong thơ Chinh phụ ngâm chẳng hạn, nhưng người lính ở đây đã kịp thổi vào không khí bi kịch cái ngọn gió của ý thức thời đại: Lý tưởng của cuộc ra đi. Ngay lập tức, hai câu tiếp theo đã là nhận thức chững chạc của một cựu binh:
Cái khoảng có những người đồng đội của tôi
Là khoảng đời đêm nay tôi nhớ
Chiến tranh khốc liệt làm con người già dặn đi rất nhanh, đánh ba trận tân binh thành lính cũ (Nguyễn Đức Mậu), ta thấy ở đây hai tiếng đồng đội đã vang lên kịp thời để thế chỗ cho hai tiếng người yêu vừa hụt hẫng trong ta. Liệu nó có thay thế được không? Và liệu có cần một sự thay thế?
Tình huống này giống như trong nhiều bài thơ viết về chia ly trong thơ trước đây, thời chống Pháp của Thế Lữ, Thâm Tâm và cả Hồng Nguyên, nhưng cuộc đời đã khác và lòng người cũng không hẳn còn như cũ. Dứt khoát với cuộc ra đi, nhưng chàng trai của những năm đánh Mỹ không quay lưng với kỷ niệm:
Cái khoảng đầu vời vợi nhìn nhau
Đằm thắm thời gian không mùa ranh giới...
Đêm hành quân anh nhớ em quá thể
Khoảng đời đầu có nhớ khoảng đời sau...
Cùng với thời gian, cú sốc-nếu như có một cú sốc như thế, sẽ qua đi, và con người vốn quen với mọi thích nghi, dần dà liền thu xếp một cuộc sống chung giữa hiện tại và quá khứ-cái ranh giới ngăn cách giữa hai phần đời cứ mờ dần, ở trong tâm tưởng thì nhờ vào một nỗi nhớ không cùng, còn trong đời thực thì cái gạch nối nhãn tiền chính là những lá thư:
Ước gì những lá thư đừng thất lạc
Nối khoảng đời này với khoảng đời xưa
Cũng dần dà, cuộc sống mới của người lính thực sự chiếm chỗ trong tâm hồn chàng trai. Đó là cuộc sống sôi động, to lớn, gắn bó anh với bao nhiêu con người cũng đang sống một cách gian lao mà anh dũng như anh, một cuộc sống chan hòa giữa núi rộng sông dài như tầm vóc cuộc chiến đấu của cả dân tộc:
Ôi cái khoảng đời nửa sau đáng yêu
Có những đêm miền trong đầm đậm
Biển ở Nga Sơn vỗ vào rất ấm
- Bọn mi lên đường, tau nhớ mần răng!
Đã vào trong anh những địa danh xa xôi Hà Trung, Nga Sơn, Cù Êu, Giăng Hạc… đã vào trong anh cái giọng trọ trẹ mà vô hạn thân thương của miền Trung: Mi, tau, răng, rứa..., ngỡ như anh đã giẫm lên đúng dấu chân của thế hệ những người lính năm xưa:
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
- Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc.
(“Nhớ” - Hồng Nguyên)
Đối với tâm hồn mỗi con người trong thế hệ chúng tôi, đó thực sự là cuộc hành trình từ suối sông ra tới biển cả bao la. Cái mô típ này của thơ chống Mỹ rất quen thuộc với chúng tôi, đó là những Cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn Mỹ, Nước vối quê hương của Nguyễn Trọng Định, Vườn trong phố của Lưu Quang Vũ... tất cả đều mang dấu ấn của thế hệ thanh niên miền Bắc khi bước vào cuộc chiến đấu chống Mỹ, một thế hệ vừa giữ được chất hồn nhiên, tươi tắn của tuổi trẻ, vừa có thêm cái già dặn, tỉnh táo mà nhà trường và xã hội mới kịp thời bổ sung. Ngã xuống trong một trận chiến đấu ác liệt với máy bay B-52 của giặc Mỹ trong Chiến dịch "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không" năm 1972, khi tuổi đời vừa hai mươi mốt, nhà thơ liệt sĩ Vũ Đình Văn là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ ấy. Với tâm thế gần gũi như một người bạn cùng trang lứa, một người đồng đội cùng chiến hào, hôm nay ngồi đọc lại những dòng anh viết cách đây gần nửa thế kỷ, tôi chợt như bắt gặp lại tuổi trẻ của mình đã đi qua, một nỗi nhớ nhung, bùi ngùi...
Những dòng tâm sự này xin thay một nén nhang tưởng nhớ nhà thơ Vũ Đình Văn cùng những đồng đội, đồng nghiệp đã hiến dâng cả tuổi trẻ và cuộc đời mình cho Tổ quốc và nhân dân!
25-7-2018
ANH NGỌC
Nửa sau khoảng đời
Cùng một dòng thư - mà hai khoảng đời
Khoảng trước xa rồi. Ai còn nhớ nữa
Cái khoảng có những người đồng đội của tôi
Là khoảng đời đêm nay tôi nhớ.
Nếu phải chia cho người yêu một nửa
Thì em ơi, nhận lấy khoảng đời đầu
Cái khoảng đời vời vợi nhìn nhau
Đằm thắm thời gian không mùa ranh giới.
Ôi cái đêm hành quân rất vội
Mắt em, mắt anh, ngần ấy vì sao
Còi lên đường. Những vì sao xôn xao:
- Thôi về đi em. Hai đứa cười nóng mặt.
Đêm hành quân anh nhớ em quá thể
Khoảng đời đầu có nhớ khoảng đời sau
Ở đây núi rừng xanh, lại nghe xanh sóng biển
Đố em tìm, em chẳng thấy anh đâu.
Điếu thuốc Sầm Sơn bảo rằng đêm rất sâu
Người Hà Trung bảo anh đừng sợ lạc
Ai gọi dải núi trước nhà là Giăng Hạc
Để ấm lòng mình một dải Cù Êu.
Ôi cái khoảng đời nửa sau đáng yêu
Có những đêm miền Trung đầm đậm
Biển Nga Sơn vỗ vào rất ấm:
- Bọn mi lên đường, tau nhớ mần răng?
Những ngày xưa, một nửa của chúng mình
Đằng trước, đằng sau, Cù Êu, Giăng Hạc
Ước gì những lá thư đừng thất lạc
Nối khoảng đời này với những khoảng đời sau.
Đêm miền Trung là đêm của dừa
Dừa vỗ lòng anh ngủ như vậy đó
Ôi cái khoảng đời đêm nay cháy đỏ
Đợi ngày anh về chia lửa cho em.
VŨ ĐÌNH VĂN
Đêm Hà Trung