Khi đó, con bé tỉnh dậy trong tay ông Van-mốt và gọi một tiếng “Ba”. Đó cũng là tiếng duy nhất con bé có thể nói lúc đó. Có người cho rằng con bé tự đi lạc, nhưng nhiều người tin rằng Đê-si-rê đã bị một nhóm người Texas bỏ lại một cách có chủ ý. Bà Van-mốt bỏ ngoài tai mọi suy đoán và cho rằng Đê-si-rê đã được Chúa lòng lành mang tới bên bà bởi thấy bà còn chưa có con. Con bé càng lớn càng xinh đẹp, dịu dàng và chân thành, là niềm tự hào của bà Van-mốt.
18 năm sau, khi Đê-si-rê đang đứng dựa lưng vào cột đá ngày nào thì Ác-man A-bi-ni cưỡi ngựa ngang qua; anh đã bị tiếng sét ái tình đánh trúng. Đó cũng là cái cách mà mọi gã trai nhà A-bi-ni gục ngã trước thần ái tình Cu-pi-đông. Kể từ khi nhìn thấy Đê-si-rê đứng ở cổng, niềm đam mê đã trỗi dậy trong cậu, kéo dài như cơn mưa dồn dập, như đám cháy trên thảo nguyên, hay bất cứ thứ gì có thể khiến cậu dấn thân vào nguy hiểm.
Ông Van-mốt thực tế hơn và muốn xem xét kỹ lưỡng mọi việc, nhất là nguồn gốc không rõ ràng của Đê-si-rê. Còn Ác-man thì nhìn vào mắt Đê-si-rê và không chút bận lòng. Người ta nhắc cậu rằng Đê-si-rê không có họ. Nhưng điều đó có hề gì? Cậu sẽ cho cô một cái họ lâu đời nhất và đáng tự hào nhất ở Louisiana. Đám cưới được cử hành.
***
Chớm đặt chân tới đồn điền L'Abri, bà Van-mốt đã rùng mình với khung cảnh nơi này. Thực ra thì bà vẫn luôn rùng mình như vậy mỗi khi đến đây. L’Abri là một đồn điền buồn tẻ nhiều năm nay không có bóng dáng dịu dàng của một bà chủ. Bố của Ác-man cưới rồi an táng vợ mình ở Pháp, mảnh đất bà nặng lòng yêu thương đến độ chẳng muốn rời bỏ. Mái nhà ở L’Abri đã nghiêng ngả và đen thẫm lại như cái chụp ống khói, vươn ra ngoài dãy hành lang rộng bao quanh ngôi nhà trát vữa vàng. Mấy cây sồi to lớn, uy nghi với tán lá dày và cành vươn xa tỏa bóng lên ngôi nhà như thể khoác lên đó một tấm áo bào. Ông chủ cũng rất nghiêm khắc và nguyên tắc, khiến những người nô lệ da đen ở đây quên mất thế nào là vui vẻ như họ đã từng được vậy dưới thời của ông chủ cũ dễ tính và đầy đam mê cuộc sống.
Minh họa: Anh Khoa
Người mẹ trẻ đang dần hồi phục, nằm dài trên đi-văng trong bộ đồ bằng vải mu-xlin trắng, mỏng, có ren. Đứa bé nằm yên trong vòng tay Đê-si-rê, ngủ yên bên ngực mẹ. Người vú da nâu sang ngồi quạt bên cửa sổ.
Bà Van-mốt nghiêng thân hình đẫy đà xuống nhẹ nhàng hôn và ôm Đê-si-rê vào lòng, trước khi quay sang đứa trẻ.
“Thằng bé đây sao!” Bà thảng thốt kêu lên.
Đê-si-rê cười lớn: “Con biết là mẹ sẽ bất ngờ mà. Thằng bé lớn như thổi. Mẹ nhìn con heo sữa này coi! Cái chân, cái tay và cả móng tay nó nữa chứ; những chiếc móng tay thực thụ. Sáng nay Dan-đơ-rin đã phải cắt móng tay cho thằng bé đấy!”.
“Cả cái cách nó khóc nữa chứ. Cứ gọi là váng cả nhà! Ác-man còn nghe thấy tiếng thằng bé tít từ xa”.
Bà Van-mốt không rời mắt khỏi thằng bé. Bà bế nó lên, đi tới bên cửa sổ, ngắm nghía thật kỹ và quay ra nhìn Dan-đơ-rin dò hỏi, nhưng người vú già đã hướng ánh nhìn xa xăm về phía những cánh đồng.
Cuối cùng, bà Van-mốt đặt thằng bé về bên cạnh Đê-si-rê, nói: “Đúng thế, thằng bé đã lớn và thay đổi nhiều. Thế Ác-man nói sao?”.
Khuôn mặt Đê-si-rê ngập tràn hành phúc: “Ồ, con tin Ác-man là người bố đáng tự hào nhất ở giáo xứ vì con đẻ con trai, sẽ mang họ của anh ấy, dù anh ấy bảo chẳng phải vậy và rằng anh ấy cũng rất thích có một cô con gái. Nhưng con biết là không phải vậy. Anh ấy chỉ nói thế để làm con vui lòng mà thôi”.
Đê-si-rê kéo thấp đầu bà Van-mốt xuống thì thầm: “Mẹ ạ, anh ấy chưa hề phạt một ai trong số các nô lệ da đen kể từ khi sinh thằng bé. Ngay cả khi Nê-gơ-ri-lông giả vờ bị bỏng chân để được nghỉ việc anh ấy cũng chỉ cười mà bảo rằng, Nê-gơ-ri-lông là thằng quỷ láu cá. Mẹ ơi, niềm hạnh phúc khiến con phát sợ”.
Quả thật tất cả những gì Đê-si-rê nói đều đúng. Đám cưới với Đê-si-rê và sự ra đời của thằng bé đã làm mềm đi rất nhiều bản tính độc đoán và hà khắc của Ác-man. Đó chính là những gì khiến cô gái Đê-si-rê dịu dàng cảm thấy hạnh phúc, vì cô yêu anh nhất mực. Mỗi cái cau mày của Ác-man cũng khiến cô run rẩy, nhưng cô vẫn yêu anh. Khi anh mỉm cười thì dường như cô chẳng còn cần tới ước nguyện nào lớn hơn để cầu xin với Chúa trời. Kể từ khi yêu cô, khuôn mặt đẹp của Ác-man đã ít còn hiện diện những cái cau mày.
Một hôm, khi thằng bé được khoảng 3 tháng tuổi, Đê-si-rê tỉnh dậy với linh cảm rằng có điều gì đó đang đe dọa sự bình yên của mình. Ban đầu, cảm giác đó chỉ phảng phất đâu đó, rất khó nắm bắt. Bắt đầu bằng một lời ám chỉ khiến người ta phải lo lắng, rồi đến bầu không khí bí ẩn giữa những người da đen, những chuyến viếng thăm bất ngờ của những người hàng xóm xa lắc mà chẳng ai lý giải nổi tại sao. Sau đó là thái độ kỳ lạ và sự thay đổi khủng khiếp của Ác-man đến độ cô không dám hỏi lý do. Khi nói chuyện với cô, Ác-man thường trả lời với ánh mắt hờ hững; ánh mắt yêu thương ngày nào dường như không còn nữa. Ác-man thường xuyên vắng nhà nhưng ngay cả những lúc ở nhà anh cũng thường tránh mặt Đê-si-rê và thằng bé mà chẳng buồn đưa ra lý do tại sao. Dường như quỷ Sa-tăng đã chiếm mất linh hồn Ác-man; anh trở nên khắc nghiệt và tàn bạo với đám nô lệ da đen. Đê-si-rê vô cùng đau khổ.
Một chiều mùa hè nóng nực, Đê-si-rê ngồi trong phòng, khoác chiếc áo choàng mỏng, trễ nải vuốt những lọn tóc nâu mượt như lụa rủ xuống ngang vai. Thằng bé cởi trần nằm ngủ trong chiếc giường lớn bằng gỗ gụ có phủ màn viền xa-tanh của mẹ. Đứa con lai của La Bờ-lăng cũng cởi trần đứng quạt cho thằng bé ngủ. Đê-si-rê chăm chú nhìn thằng bé trong khi vẫn nỗ lực để bước ra khỏi tấm màn sương mù bí ẩn đang bao quanh mình. Cô nhìn thằng bé rồi lại nhìn đứa con của La Bờ-lăng, cứ vậy nhiều lần, và bỗng cô không kìm được nữa, bật lên thành tiếng “A”. Máu như đông cứng trong huyết quản, mặt cô lấm tấm mồ hôi.
Đê-si-rê cố gọi đứa bé con nhà La Bờ-lăng mà mãi không bật được thành lời. Sau cùng, khi nghe gọi tên, thằng bé ngẩng lên nhìn, thấy cô chủ đưa tay chỉ ra cửa, nó ngoan ngoãn đặt chiếc quạt lông công xuống, rón rén nhón đôi chân trần đi ra ngoài.
Đê-si-rê ngồi chết lặng, chăm chú nhìn đứa trẻ, trên mặt hiển hiện nỗi sợ hãi tột độ. Ngay lúc đó, chồng cô bước vào phòng, chẳng để ý đến sự có mặt của cô, đi thẳng tới chiếc bàn và bắt đầu lục lọi mấy thứ giấy tờ trên đó.
“Ác-man!” Đê-si-rê gọi anh bằng một giọng như muốn xé nát trái tim anh, nếu còn là con người. Nhưng Ác-man chẳng hề để ý. Đê-si-rê tiếp tục gọi: “Ác-man” và đứng dậy lảo đảo đi về phía anh. Nắm chặt lấy tay chồng, Đê-si-rê hổn hển: “Ác-man, anh lại nhìn con mà xem. Chuyện này là sao?”.
Ác-man nhẹ nhàng nhưng hết sức lạnh nhạt kéo mấy ngón tay Đê-si-rê ra, đẩy cánh tay cô ra xa. Đê-si-rê hét lên tuyệt vọng: “Nói cho em nghe, chuyện này nghĩa là sao?”
Ác-man trả lời, nhẹ bẫng: “Có nghĩa là thằng bé không phải người da trắng, cũng đồng nghĩa là em không phải là người da trắng”.
Nhanh chóng hiểu ra lời buộc tội đó đồng nghĩa với điều gì, Đê-si-rê vùng lên phủ nhận: “Không đúng. Em là người da trắng! Hãy nhìn tóc em đi, nó màu nâu kia mà; anh biết là mắt em màu xám kia mà. Còn da em nữa”. Đê-si-rê cười to cuồng loạn, cầm lấy cổ tay Ác-man: “Nhìn tay em mà xem, còn trắng hơn cả anh nữa ấy chứ”.
Ác-man trả lời cay độc: “Cũng chỉ trắng như La Bờ-lăng thôi!”, và quay lưng bỏ đi.
Khi đã đủ bình tĩnh để có thể cầm bút, Đê-si-rê gửi một bức thư đầy tuyệt vọng cho bà Van-mốt: “Mẹ ơi! Họ bảo rằng con không phải là người da trắng. Ác-man bảo con không phải là người da trắng. Vì Chúa hãy bảo họ rằng điều đó là dối trá, mẹ ơi. Mẹ chắc phải biết rõ điều này hơn ai hết. Con sẽ chết. Con phải chết. Con không thể sống mà bất hạnh như thế này”.
Thư trả lời nhanh chóng được chuyển tới, nội dung ngắn gọn: “Đê-si-rê của mẹ, hãy về với người mẹ luôn yêu thương con hết mực. Mang cả thằng bé về nữa”.
Nhận được thư mẹ, Đê-si-rê mang tới phòng đọc của chồng, mở ra, đặt lên mặt bàn nơi anh ngồi. Cô đứng như trời trồng, im lặng, mặt trắng bệch. Ác-man im lặng lướt cặp mắt lạnh lẽo trên từng con chữ, không nói một lời.
Đê-si-rê hỏi, giọng đầy đau đớn: “Em có nên về không?”
“Em về đi”.
“Anh muốn em ra đi thật sao?”
“Đúng, anh muốn em ra đi”.
Ý nghĩ của Ác-man là đấng toàn năng đã giáng cho anh một đòn chí mạng và cảm thấy giờ đây anh phải trả thù Chúa trời bằng cách ấn sâu lưỡi dao này vào trái tim vợ mình. Mà anh cũng không còn yêu Đê-si-rê nữa bởi vết thương cô vô tình mang lại cho ngôi nhà này và cho tên họ của anh.
Đê-si-rê chậm chạp quay bước ra cửa như thể vừa bị giáng một đòn chí tử, hy vọng Ác-man sẽ gọi cô quay lại. Tới cửa, cô nức nở: “Vĩnh biệt anh, Ác-man!”
Ác-man không trả lời. Sự im lặng của anh như đòn đánh cuối cùng giáng vào số phận.
Đê-si-rê đi tìm thằng bé. Dan-đơ-rin đang bế nó đi dọc dãy hành lang ảm đạm. Đê-si-rê đón lấy thằng bé từ tay người vú, bước xuống bậc cửa, đi thẳng ra dưới tán sồi, không một lời giải thích.
Đó là một buổi chiều tháng Mười, mặt trời đang dần xuống núi. Ngoài đồng, đám nô lệ da đen vẫn đang hái bông.
Không thay chiếc áo choàng mỏng màu trắng và đôi dép đang đi, Đê-si-rê đầu để trần; nắng chiều vàng óng lên khi xuyên qua mái tóc nâu. Cô không đi theo đường lớn dẫn về phía trang trại xa tít của bà Van-mốt, mà đi cắt ngang qua một cánh đồng hoang, đất đá lởm chởm làm thâm tím đôi bàn chân mỏng và xé rách chiếc áo choàng của cô thành nhiều mảnh vụn.
Đê-si-rê mất hút vào trong đám sậy, liễu rậm rạp ven một nhánh sông nước sâu, lững lờ chảy; và người ta không thấy cô quay về nữa.
* * *
Vài tuần sau, ở đồn điền L’Abri, người ta chứng kiến một cảnh tượng kỳ lạ. Ở giữa khoảng sân sau đã được quét dọn sạch sẽ là một đống lửa lớn. Ác-man ngồi ở phía hành lang rộng có thể bao quát toàn bộ khung cảnh. Anh tự tay chia cho sáu người da đen mang những thứ để vứt vào cái “giàn hỏa thiêu” ở giữa sân.
Những thứ đó gồm một chiếc nôi rất đẹp làm bằng gỗ liễu cùng tất cả những vật dụng trang nhã của nó, vốn được trải đầy tã lót đắt tiền trước đây; những chiếc áo choàng phụ nữ bằng lụa, vải nhung và xa-tanh, viền đăng ten hay thêu hoa văn; mũ và găng tay cho trẻ sơ sinh; và cả lẵng hoa cưới.
Món đồ cuối cùng đi vào “giàn hỏa thiêu” là những lá thư với những con chữ vô tội Đê-si-rê gửi cho anh trong những ngày còn mặn nồng. Còn một lá thư nữa trong ngăn kéo đựng thư mà Ác-man mới lấy ra. Đó không phải là thư của Đê-si-rê, mà là một phần lá thư mẹ Ác-man gửi cho bố anh. Ác-man mở ra đọc. Trong thư, mẹ anh cảm ơn Chúa đã ban tặng cho bà tình yêu của bố anh.
Bà viết: “Nhưng hơn cả, em cảm ơn Chúa lòng lành đã sắp xếp đời mình để Ác-man yêu dấu của chúng ta sẽ không bao giờ biết được mẹ nó, người hết mực yêu thương nó, thuộc về một chủng tộc phải chịu lời nguyền nô lệ”.
Truyện ngắn của KẾT SÔ-PANH (Mỹ) - MẠC TRIỀU (dịch)