Kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh, vì lợi ích của nhân dân và dân tộc, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã không ngừng phát triển lý luận về xây dựng Đảng trong công cuộc đổi mới. Điều này được thể hiện cụ thể thông qua quá trình phát triển lý luận trên một số vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng.
Phát triển lý luận chung về Đảng và bản chất của Đảng. Trải qua 40 năm đổi mới nhận thức về bản chất và diễn đạt bản chất giai cấp công nhân của Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Từ Đại hội IV đến Đại hội VI, Đảng luôn khẳng định “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân Việt Nam”, đến Đại hội VII, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức với việc phân biệt bản chất giai cấp của Đảng với vấn đề Đảng của ai.
Đại hội VII lần đầu tiên khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Đến Đại hội X, Đảng ta đã xác định rõ, đầy đủ và khoa học hơn bản chất của Đảng; đã bổ sung hệ thống lý luận có tính bước ngoặt về bản chất của Đảng, bằng việc diễn đạt mới: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(1). Khẳng định điều này, vừa phản ánh được bản chất giai cấp công nhân của Đảng theo học thuyết Mác-Lênin, vừa thể hiện nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát triển lý luận sáng tạo của Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân dân. Sự phát triển lý luận về xây dựng Đảng còn thể hiện ở việc bổ sung nền tảng tư tưởng của Đảng. Đại hội VII của Đảng xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(2), đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Nội hàm khái niệm xây dựng Đảng cũng được bổ sung, phát triển, “chỉnh đốn Đảng” đi liền với “xây dựng Đảng” và xây dựng Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đây là sự phát triển lý luận nhằm gắn chặt giữa xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
 |
| Ảnh minh họa: qdnd.vn |
Phát triển lý luận xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về công tác xây dựng Đảng, Đại hội XIII đã khẳng định xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị dựa trên cơ sở 4 “kiên định”: Kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Quá trình xây dựng Đảng về chính trị luôn đổi mới, nâng cao chất lượng công tác hoạch định đường lối của Đảng và năng lực dự báo; nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Cùng với đó, đã phát triển lý luận xây dựng Đảng về tư tưởng, với việc coi trọng công tác tư tưởng, hướng vào đổi mới tư duy, khơi dậy ý chí cách mạng của quần chúng, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tăng cường đoàn kết nhất trí về tư tưởng trên cơ sở hệ tư tưởng Mác-Lênin và quan điểm, đường lối của Đảng. Công tác tư tưởng, lý luận đổi mới theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả. Nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập lý luận, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ yêu cầu thực tiễn xây dựng Đảng, Đại hội XII đã bổ sung vấn đề đạo đức là một nội dung cơ bản của xây dựng Đảng, đến Đại hội XIII tiếp tục được khẳng định với việc đề ra và thực hiện chuẩn mực đạo đức cách mạng.
Đảng đã có sự phát triển lý luận xây dựng Đảng về cán bộ, đưa việc xây dựng đội ngũ cán bộ thành một mặt chủ yếu của xây dựng Đảng. Đây là sự phát triển lý luận về cấu trúc công tác xây dựng Đảng thành 5 mặt cơ bản là xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đã xây dựng Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xác định công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.
Phát triển lý luận xây dựng Đảng về tổ chức và đội ngũ đảng viên, được Đảng khẳng định: Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở; xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên. Qua tổng kết thực tiễn, đã cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân nhưng phải gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Đồng thời, chủ trương đẩy mạnh phát triển đảng viên trong doanh nhân, đánh dấu một bước phát triển về nhận thức lý luận của Đảng về công tác đảng viên.
Phát triển lý luận về xây dựng mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Sự phát triển lý luận của Đảng đã khẳng định “dân là gốc”, là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới và xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Điều này cho thấy sự phát triển và ngày càng hoàn thiện lý luận về dân chủ và mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; mở rộng, phát triển phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ngày càng được làm sáng tỏ.
Phát triển lý luận về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng; giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm. Đặc biệt, đã có sự phát triển về lý luận khi Đảng thực hiện chuyển trọng tâm công tác kiểm tra sang kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra. Đã bổ sung công tác giám sát gắn liền với công tác kiểm tra. Với công tác kỷ luật của Đảng, đã đổi mới phù hợp với yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Phát triển lý luận về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Đảng đã đề ra nhiệm vụ: Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm dụng, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Đối tượng của kiểm soát quyền lực được mở rộng từ kiểm soát quyền lực nhà nước tới kiểm soát quyền lực của các cơ quan đảng, cá nhân trong bộ máy đảng và hệ thống chính trị. Thực hiện kiểm soát quyền lực theo nguyên tắc bao trùm: Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu, trách nhiệm đến đó; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý. Đảng xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí gắn với phòng, chống tiêu cực và phải được thực hiện đồng bộ, hiệu quả; thực hiện nhất quán theo phương châm: Phòng ngừa từ sớm, từ xa; kết hợp giữa “xây” và “chống”, trong đó phòng là chính, cơ bản, lâu dài, chống là quan trọng, đột phá; đấu tranh không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự soi sáng của lý luận với tư duy, cách làm mới, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, rõ nét ngày càng đi vào chiều sâu, không ngừng củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ ta.
Phát triển lý luận về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Đảng đã phát triển lý luận về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, thông qua sử dụng khái niệm “phương thức lãnh đạo” thay cho “phương pháp lãnh đạo”, “tác phong công tác”. Cùng với đó, đã có sự phát triển mới về phương thức cầm quyền của Đảng với việc xác định rõ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong tình hình mới. Theo đó, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng không chỉ bằng cương lĩnh, đường lối; bằng công tác tư tưởng; bằng hành động nêu gương, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng công tác kiểm tra, giám sát... mà phải bằng cải cách hành chính, chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo... bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng hiệu lực, hiệu quả thiết thực, làm cho ý Đảng ngày càng hợp với lòng dân.
(còn nữa)
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.4
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.253-254