Nguồn lực phát triển quốc gia
Phóng viên (PV): Năm 2025 đánh dấu tròn 20 năm Ngày DSVH Việt Nam, theo đồng chí, đâu là dấu ấn quan trọng thể hiện sự chuyển mình tích cực của công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH Việt Nam?
PGS, TS Lê Thị Thu Hiền: Ngày DSVH Việt Nam tròn 20 năm-sự kiện này càng có ý nghĩa đặc biệt hơn khi tròn một năm kể từ ngày Quốc hội thông qua Luật DSVH số 45/2024/QH15. Đây là thời điểm rất có ý nghĩa để cùng nhau nhìn lại chặng đường phát triển của ngành DSVH với nhiều dấu ấn quan trọng có thể kể đến, như: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về DSVH ngày càng được hoàn thiện, thể chế hóa đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa và DSVH.
 |
| PGS, TS Lê Thị Thu Hiền. |
Hoạt động nghiên cứu, kiểm kê, xếp hạng và ghi danh DSVH đạt được những thành tựu tích cực, với hơn 4 vạn di tích trong danh mục kiểm kê, có 9 DSVH và thiên nhiên thế giới, 147 di tích quốc gia đặc biệt, 327 bảo vật quốc gia, 3.677 di tích quốc gia, gần 11.000 di tích cấp tỉnh; có hơn 65.000 DSVH phi vật thể (DSVHPVT) được kiểm kê, 722 DSVHPVT được đưa vào danh mục di sản quốc gia; 16 DSVHPVT được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh đại diện của nhân loại và cần bảo vệ khẩn cấp; có 11 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh... phản ánh toàn diện lịch sử, văn hóa, đất nước và con người Việt Nam.
Bộ máy quản lý DSVH từng bước được tinh gọn, kiện toàn; đội ngũ cán bộ DSVH ngày càng được hoàn thiện cả về chất lượng và số lượng. DSVH tiếp tục được các địa phương quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo, nhiều di tích đã kịp thời được tu bổ, tôn tạo, trở thành những sản phẩm du lịch-văn hóa hoàn chỉnh, thu hút du khách tới tham quan, tìm hiểu, qua đó, thúc đẩy phát triển du lịch, giải quyết việc làm thường xuyên cho người lao động.
Dưới góc độ quản lý nhà nước về DSVH, theo tôi, sự chuyển biến rõ rệt và sâu sắc nhất đó chính là: Sự thay đổi trong nhận thức của toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa của DSVH ngày càng đồng bộ và đi vào chiều sâu-DSVH từng bước khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, đã thực sự trở thành nguồn lực quan trọng góp phần phát triển kinh tế-xã hội, là cầu nối giữa Việt Nam với thế giới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
 |
| Di sản văn hóa phi vật thể hát Xoan (Phú Thọ)-loại hình di sản được thế hệ trẻ phát huy, thực hành và được địa phương đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Ảnh: THANH TÙNG |
PV: Nhiều DSVH của Việt Nam được UNESCO ghi danh thời gian qua. Đồng chí đánh giá thế nào về tác động tích cực của các danh hiệu này đối với nhận thức của cộng đồng, phát triển du lịch và quảng bá hình ảnh Việt Nam?
PGS, TS Lê Thị Thu Hiền: Thực tế đã chứng minh, mỗi DSVH vật thể, DSVHPVT và di sản tư liệu được ghi danh vào các danh sách của UNESCO đều mang ý nghĩa nổi bật và hiệu ứng lan tỏa tích cực rất lớn, không chỉ về mặt xã hội mà còn cả về kinh tế. Trước hết, về mặt xã hội, các DSVH được UNESCO ghi danh đã góp phần khơi dậy niềm tự hào và ý thức, trách nhiệm của cộng đồng, chính quyền địa phương, toàn xã hội trong việc bảo vệ DSVH, tạo thêm động lực trong quá trình xã hội hóa các hoạt động bảo tồn DSVH. Mỗi DSVH được UNESCO ghi danh đều chứa đựng trong đó tinh hoa, truyền thống, thể hiện bản sắc của đất nước, con người và văn hóa Việt Nam. Chính vì thế, các DSVH chính là thông điệp quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam hòa bình, tươi đẹp, con người thân thiện và nền văn hóa giàu bản sắc
Về hiệu quả kinh tế, các di sản thế giới sau khi được tu bổ, tôn tạo đã trở thành những sản phẩm du lịch-văn hóa hoàn chỉnh có tính đặc thù, tạo ra những điểm, tuyến du lịch hấp dẫn, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển ngành kinh tế mũi nhọn du lịch, thay đổi cơ cấu kinh tế của địa phương; tạo việc làm ổn định cho hàng vạn lao động tại địa phương có di sản, đóng góp vào phát triển bền vững về kinh tế-xã hội, môi trường và an ninh. Như trường hợp Quần thể di tích Cố đô Huế (năm 1993) và vịnh Hạ Long (năm 1994) khi mới được ghi danh là DSVH và thiên nhiên thế giới chỉ có vài chục nghìn khách du lịch, đến nay đã thu hút tới hàng triệu khách tới tham quan, nghiên cứu. Đặc biệt, Quần thể danh thắng Tràng An, tại thời điểm lập hồ sơ đề cử năm 2012 chỉ có hơn 1 triệu lượt khách, đến năm 2024 đã thu hút gần 8,1 triệu lượt khách; riêng 6 tháng đầu năm 2025 đón hơn 7,2 triệu lượt khách... Năm 2024, chỉ tính riêng 8 DSVH và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam đã đón gần 15 triệu khách du lịch (trong đó có 6.395.510 khách quốc tế), với doanh thu từ vé tham quan và phí dịch vụ trực tiếp khoảng 7.749 tỷ đồng...
Phát huy giá trị di sản gắn với phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
PV: Hợp tác quốc tế về di sản ngày càng mở rộng. Theo đồng chí, những mô hình, kinh nghiệm hay nguồn lực quốc tế nào đã góp phần tạo nên sự đổi mới hiệu quả trong lĩnh vực di sản nước ta?
PGS, TS Lê Thị Thu Hiền: Hiện nay, Việt Nam đã tham gia 4/6 công ước về văn hóa và DSVH của UNESCO, là quốc gia thành viên tích cực, đối tác tin cậy, điển hình mẫu mực trong hợp tác, đối thoại với UNESCO. Việc tham gia các công ước nói trên đã chứng tỏ sự hội nhập thực sự của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị DSVH. Chuyên gia của Việt Nam đã ứng cử và được những quốc gia thành viên các công ước của UNESCO (hơn 190 quốc gia) tín nhiệm bầu giữ những trọng trách quan trọng trong Ủy ban Di sản thế giới; Việt Nam được bầu là Phó chủ tịch Ủy ban Ký ức thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương nhiệm kỳ 2020-2024, nhiệm kỳ 2024-2026 và là thành viên Hội đồng tư vấn AIC (Hội đồng tư vấn di sản tư liệu khu vực châu Á-Thái Bình Dương) của UNESCO, thẩm định các hồ sơ di sản tư liệu trình ghi danh nhiệm kỳ 2024-2026... Để có được thành công như trên, trước hết là nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng tôi có thêm nguồn lực và cơ hội tham gia sâu rộng vào các tổ chức quốc tế. Mặt khác, chính nhờ sự nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH, kết quả tích cực đạt được phần nào đã phản ánh sự ghi nhận và ủng hộ của UNESCO và cộng đồng quốc tế.
Nguyên Tổng giám đốc UNESCO Audrey Azoulay từng khẳng định: “Chính sự gìn giữ tinh tế các giá trị văn hóa, lịch sử, truyền thống trong quá trình hiện đại hóa đã tạo nên bản sắc độc đáo và sức hấp dẫn bền vững của Việt Nam trên trường quốc tế. UNESCO sẽ tiếp tục ủng hộ, hỗ trợ Việt Nam trong những hoạt động ghi danh, bảo tồn bền vững các di sản thế giới, phát huy giá trị di sản, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong thời gian tới”. Điều này có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, thể hiện vị thế và uy tín ngày càng cao của đất nước trên trường quốc tế, thể hiện sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với kinh nghiệm, khả năng đóng góp trong việc xây dựng chính sách mang tính chất toàn cầu.
PV: Luật DSVH (sửa đổi, bổ sung) chính thức có hiệu lực từ tháng 7-2025, đồng chí có kỳ vọng điều này sẽ mang lại những cơ hội lớn trong công tác bảo tồn và phát huy DSVH?
PGS, TS Lê Thị Thu Hiền: Luật DSVH và các văn bản thi hành đã kịp thời khắc phục những bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành, đồng thời bổ sung những quy định mới nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, cụ thể: (1) Quy định cụ thể việc xác lập DSVH theo từng loại hình sở hữu; (2) cụ thể hóa các chính sách của Nhà nước trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH, ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho các hoạt động có tính đặc thù; (3) cụ thể hóa các chính sách về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích; (4) quy định về quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, quy định mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam từ nước ngoài về nước; (5) bổ sung Quỹ bảo tồn DSVH; (6) bổ sung quy định chính sách về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu...
Luật DSVH có nhiều điểm mới, đồng bộ với các quy định pháp luật liên quan, tôi tin tưởng và kỳ vọng rằng sẽ tạo ra bước đột phá quan trọng về thể chế, tạo cơ chế thuận lợi thu hút tối đa các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị DSVH. Đồng thời, từng bước giải quyết các “điểm nghẽn” về chính sách, tạo cơ chế phát huy giá trị DSVH, góp phần định vị thương hiệu quốc gia, địa phương và quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế; khẳng định vị thế của DSVH Việt Nam trong kho tàng DSVH nhân loại.
Nhân dịp Ngày DSVH Việt Nam (23-11), tôi xin gửi lời tri ân cũng như luôn tin tưởng và hy vọng rằng, với sự đồng hành của cả dân tộc, những giá trị đặc sắc của DSVH Việt Nam sẽ tiếp tục được gìn giữ, lan tỏa mạnh mẽ không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn ở cấp độ quốc tế.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!