QĐND - Vừa dốc sức vun xong đống thóc cuối vụ thành hình quả núi nhỏ, phủ bạt, cẩn thận chèn gạch chung quanh, bà Huê vừa gạt mồ hôi ròng ròng, ngửa mặt trông trời. Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy. Biết chạy đi đâu, tuổi già mắt mờ chân chậm, hai đứa cháu tuổi ăn tuổi lớn đang bận thi cuối kỳ, việc nhà cửa, mùa màng trút hết lên vai người già cả.
Mây ùn ùn kéo đến trong chớp nhoáng, từng bọng đen nặng nề chứa đầy nước mưa, sấm chớp chỉ chực chờ vỡ òa, trút xả. Hết lo chạy lúa lại ngóng cháu về. Hai đứa này sao đã non trưa chẳng thấy mặt mũi đâu, bình thường thi cử sẽ về sớm hơn đi học. “Bà, bà ơi! Cháu đói!”, giọng thằng Bình đã í ới ngoài đầu ngõ. Nối gót nó là Vinh-chị gái, vừa xách cặp vừa hổn hển trách: “Em chỉ biết mỗi ăn thôi, mau mau về chạy lúa cho bà!”.
Bà Huê mủm mỉm cười hiền hậu, bao mệt nhọc tan biến thật nhanh khi nhìn thấy cháu. Bà mắng yêu: “Chờ hai đứa về thì cả sân lúa theo nước mưa chảy hết xuống cống rồi. Mau vào đây ăn chè đỗ xanh, vừa kịp nguội, tha hồ mát dạ nhé!”. Chị em Vinh và Bình reo lên, quẳng cặp sách một bên, sà ngay xuống manh chiếu đặt chiếc mâm đồng chính giữa, bà đã ngả ra từng bát chè sánh mịn, thơm hương. Cháu vừa ăn vừa xuýt xoa ngon lành, bà bỗng xót lòng xót dạ, mắt rưng rưng nhìn khoảng sân mưa đã bắt đầu rơi mạnh như ai ném lạc.
 |
Minh họa truyện ngắn. Mạnh Tiến. |
Tính ra, đã chẵn tháng kể từ lúc Nhiên-con dâu bà rời khỏi nhà. Buổi ấy, cũng có cơn mưa đằng Đông, bọng mây rù rì, nặng trĩu, hai đứa trẻ thì chưa đi học về. Giọng con dâu đọng nước, nhưng bình tĩnh thưa với bà: “Con xin mẹ cứ tạm thời nói với các cháu rằng con đi công tác xa một thời gian, nếu việc suôn sẻ con sẽ về nhà, bằng không, xin mẹ thứ lỗi cho con...”. Bà Huê tay ôm chiếc nón mê đã sờn, mắt dõi ra khoảng sân đang mưa lộp độp, rào rào. Vừa nãy, Nhiên vẫn chạy mưa, thu hết mấy nong bột sắn dây, đỗ xanh, đỗ tương đang hong phơi dù trên người đã mặc sẵn bộ quần áo mới chuẩn bị đi. Nhưng con dâu đi đâu? Bà Huê không biết. Chỉ biết đứa con dâu mình thương, mình xót như con đẻ đã chủ động viết đơn ly hôn, gửi lại bà, chờ chồng xong nhiệm vụ được về sẽ ký vào. Hai vợ chồng chưa từng cãi vã. Hai đứa con lớn như măng, thông minh sáng dạ. Ngần ấy năm sống chung, bà Huê ngầm hiểu với bản tính nhân hậu và sự dung dị, mực thước của một cô giáo ắt phải có nguyên nhân sâu xa, đáng lý.
Nhiên là vợ bộ đội. Nhân-chồng cô công tác trên biên giới, cứ một thời gian lại được điều chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác, bám trụ mãi trên dải xa xanh và xa xôi ấy thôi, năm đôi lần về phép. Bố chồng cô cũng là bộ đội, xưa đóng quân ở đảo, gắn bó với mênh mông trời nước tới tận lúc về hưu, sống bên vợ con được dăm năm thì qua đời. Cảnh nhà không có đàn ông, con thèm hơi bố, vợ tủi thân vò võ một mình bà Huê thấm lắm. Thấm mà nào dám kêu than. Cả làng lấy bà làm gương để răn con, dạy cháu. Người phụ nữ đương xuân, khỏe khoắn, tươi tắn ngời ngời tối ngày làm lụng, dạy dỗ con trai giỏi giang, ngoan ngoãn.
Nhân là trường hợp duy nhất của xã thi đỗ Học viện Biên phòng. Mấy bà thím, bà mợ không ngừng phân bua, cạnh khóe cháu dâu: “Ngày xưa mẹ mày một mình gánh vác, khổ cực bao nhiêu còn chịu được, giờ tuy chồng ở xa nhưng mẹ chồng đỡ đần cơm nước, nhà cửa, ngày cũng chỉ hai buổi đi dạy, sao mà không chịu được đến nỗi phải bỏ chồng?”; “Cả làng, ai được mẹ chồng chiều chuộng như mày, ngày xưa bà ấy chăm con, giờ chăm cháu. Ích kỷ như thế thì cả nước cứ hễ ai là vợ bộ đội là bỏ nhau hết à?”; “Mà từ xưa đã biết thằng Nhân là bộ đội, công tác ở biên giới, sao không bỏ luôn đi còn yêu đương cưới hỏi làm gì để giờ tội mẹ già, con dại?”...
Tất cả câu hỏi ấy, Nhiên không trả lời được, nuốt nước mắt vào trong. Mẹ chồng cô không một lời oán trách, cũng không cự cãi lại ai nhưng tận sâu tâm trí vẫn tin Nhiên, thương Nhiên. Thậm chí, bà từng nghĩ, hoàn cảnh mỗi thời một khác, nếu quả thật con dâu không chịu nổi cảnh xa chồng, thì bà sẽ cố chăm lo cho các cháu. Không chịu nổi thì đi, còn hơn sống vật vờ rồi đến một ngày nào đó lại vỡ ra những điều khiến bao người đớn đau, hờn tủi. Thuở xưa, bà được cả làng ngợi khen tảo tần, son sắt. Chồng bà về hưu cũng lấy đó làm niềm vui tuổi già, thầm biết ơn người vợ đã hy sinh trong thầm lặng. Chỉ người trong cuộc biết, bà đã phải gồng mình lên và chịu đựng những gì.
Thời gian này, Nhân và đồng đội đang căng sức chống dịch Covid-19 ở chốt vùng biên giới mà vợ lại đòi ly hôn, còn nỗi đau đớn nào cho bằng. Thế nên bà Huê giấu tiệt, dặn họ hàng quen thân không ai được nhắn gọi, thông tin gì cho Nhân. Mọi người đều hiểu nhiệm vụ đặc biệt mà Nhân và đồng đội đang đảm đương, cũng như hiểu được trái tim và “uy quyền” từ người mẹ cả đời trong sạch, lam lũ, thế nên tuyệt nhiên không ai dám loan tin. Ấy là không loan tin đến Nhân, chứ điều ra tiếng vào, xì xào to nhỏ vẫn đâu đấy. Người ta trách Nhiên sướng không biết đằng sướng, chỉ nghĩ đến thân mình.
Người lại để ý thấy cô mấy tháng nay cứ thỉnh thoảng lại ăn mặc chỉn chu, đầu tóc gọn gàng, xách túi lên đường. Ai hỏi toàn nói đi tập huấn, mà tập huấn hay không thì mấy cô giáo cùng trường cũng phải đi cả chứ, đằng này mỗi Nhiên đi. Đã có người mỉa mai, nói hờn, nói mát thẳng vào mặt, thế mà cô vẫn lùi lũi đi. Riêng mẹ chồng thì không hỏi. Bà luôn chuẩn bị đồ ăn cho con dâu lót dạ trên đường, hỏi bao giờ về với đám trẻ con. “Mẹ thích quà gì con mua cho mẹ?”, mấy lần Nhiên hỏi thế, bà Huê nắm lấy tay con dâu, mắt hơi rơm rớm: “Mẹ già rồi quà cáp gì nữa, con về sớm dắt hai đứa đi chợ xem chúng nó thích gì thì mua, đừng mua gì trên phố, đắt lắm mà nhỡ đâu không vừa ý trẻ”.
“Có ai ở nhà không, mưa gió thế này, may vừa phơi hết lúa!”, tiếng ông trưởng họ sang sảng đầu hồi, chào vọng vào nhà, tay cụp chiếc ô sũng nước, đôi ủng rút ra cũng lõng bõng toàn nước. Hai đứa trẻ ăn xong đã vào buồng học bài. Ông hạ giọng, ý tứ: “Bà xem thế nào, chứ tình hình này là không giấu thằng Nhân thêm được nữa đâu. Trong họ không nói làm gì, người làng đều đã biết, thể nào chẳng đến tai nó. Thà chủ động nói ra còn hơn ít nữa nó về oán trách cả nhà giấu nhẹm cái chuyện tày đình”. Bà Huê thường ngày hiền lành nhưng ẩn giấu trong tính cách sự cứng cỏi, bản lĩnh. Bây giờ bản lĩnh ấy đã phát tiết. Bà nói chắc như đinh: “Chuyện vẫn chưa rõ sự tình thì không ai được nói. Tôi đã xin với bác trưởng cho tôi thời gian mà, và thời hạn đó đã hết đâu”. Ông trưởng họ thở dài, đứng dậy bật ô, xỏ ủng ra về.
Bà Huê ngồi trên chiếc bàn cũ kỹ Nhiên vẫn thường ngồi soạn giáo án hằng đêm. Ngăn kéo bên phải là những chồng thư Nhân viết từ thời hai đứa mới chớm yêu tới tận ngày sắp cưới, Nhiên dùng dải lụa mảnh dẻ màu xanh buộc lại theo từng năm. Ngăn kéo bên trái toàn đồ kỷ niệm Nhân tặng, mấy chiếc cặp tóc nhỏ xinh, khung ảnh bé bằng lòng bàn tay lồng hình hai đứa, sau này vẫn là những khung ảnh như thế nhưng thêm hình các con. Có lần, Nhân khoe với mẹ, anh tự làm khung ảnh nhỏ để vợ có thể mang theo bên mình, cho vào cặp sách, túi áo, hoặc giữ trên tay. Nước mắt bà trào ra, không biết giờ này Nhiên ở đâu, làm gì, thực sự đã xảy ra chuyện gì, ai lại nỡ đồn thổi cô trai gái bồ bịch, bỏ chồng, bỏ con...
“Đây bác xem, cháu chụp lại từ màn hình ti vi, chỉ loáng thoáng thôi nhưng giống chị Nhiên lắm!”, người cháu họ đưa cho bà Huê xem hình chụp trên điện thoại. Gương mặt người phụ nữ bên cạnh nhóm người hơi mờ nhưng trang phục, thần thái giống hệt Nhiên, bà nhận ra cả chiếc áo màu tím cổ sen cô mua ngày Nhân được về phép, hai vợ chồng lên chợ huyện chơi, vừa về đến nhà cô đã khoe ngay với bà. “Cháu ở nhà cùng mọi người trông nom hai đứa trẻ, bác đi một chuyến rồi về”, sau lời gửi gắm, bà Huê lên đường.
Thành phố ngột ngạt, oi ả, ai cũng khẩu trang kín mít phòng dịch. Từ bến xe, bà bắt xe ôm đến đúng địa chỉ người cháu họ đã ghi theo thông tin từ phóng sự phát trên truyền hình: "Xóm ung thư". Bà vừa hỏi thăm ở đây có ai tên Nhiên, mấy người đã chào đón, chỉ dẫn: “Cô ấy trọ ở phòng cuối, nhưng giờ này chắc đang tập trung nấu cháo đưa vào bệnh viện cho mọi người nên bác ghé phòng 12 nhà chú Xuân, nồi cháo chung của xóm đặt ở đó”. Bà Huê thấy tai mình ù đi, mồ hôi tuôn lạnh khắp sống lưng, bước chân lần chần tiến đến căn phòng số 12.
Một nhóm phụ nữ người nhặt rau, người băm thịt, người khuấy cháo. “May có thêm cô Nhiên, xóm không phải lo đến thực đơn nữa, phụ nữ khéo tay có khác, mấy bác đã di căn cũng hớp được đôi thìa cháo cầm lòng”; “Thế bệnh tình cô ra sao, chẳng thấy người thân qua lại đỡ đần thế?”; “Rồi cũng phải tính chuyện lâu dài đấy, một mình lúc khỏe đi dọn nhà thuê, rảnh rỗi về xóm nấu cháo thiện nguyện, lấy đâu ra tiền mà thuốc thang”... Đôi chân bà Huê run lên, khuỵu xuống. Nhiên đã gầy đi rất nhiều, hai quầng mắt trũng sâu, thâm đen, nghe mọi người nói vẫn cố nhoẻn cười như không có gì nghiêm trọng. “Nhiên ơi! Con ơi!”, nghe tiếng gọi, cô buông vội chiếc muôi lớn trên tay, sững sờ giây lát rồi chạy vụt ra ôm chầm lấy bà. “Con ơi! Sao ra nông nỗi này, sao không nói một lời với mẹ?”. Xung quanh vang tiếng xì xào: “Tội nghiệp bà, từng này tuổi còn đau đớn vì con. Chắc mẹ đẻ...”; “Ừ, mẹ con tình cảm thế cơ mà”...
Nhiên ngồi ở mé giường, cạnh hành lý mẹ chồng đã sắp xếp, cô chuẩn bị về quê theo bà. Đêm trước, hai mẹ con đã trò chuyện tới gần sáng. Bà Huê vỗ về, nhắn nhủ cho con hiểu chuyện mình, chuyện đời. Bà không đồng tình khi Nhiên nghĩ rằng mình mắc bệnh ung thư sẽ thành gánh nặng cho gia đình và tờ đơn ly hôn sẽ giải thoát cho Nhân. Không bất hạnh nào bằng chuyện người trong gia đình không được sẻ chia, gánh vác cùng nhau. Giọng bà Huê tình cảm mà kiên quyết: “Con sẽ không bao giờ phải chịu đựng một mình. Mẹ sẽ họp họ hàng, sẽ gọi Nhân về, tất cả mọi người đều ở bên con”. Ngoài hiên, vài người vội vã thu gom quần áo trên dây phơi. Nghe đâu đằng Đông cơn mưa to lắm, nhưng Nhiên cảm thấy ấm lòng, có mẹ thì bao nhiêu dông gió, bão bùng cũng đều vượt qua cả.
Truyện ngắn của MAI AN