- Cụ ơi! Cụ biết đường về làng Yên Ngoạt không?
Bà cụ ngoài tám mươi, nhưng đôi mắt vẫn còn tinh anh lắm. Hỏi lại:
- Ngoạt hay Nguyệt? Giờ này thì làm gì còn xe đi về hướng đó.
Ông khách đáp lại đầy thất vọng:
- Cảm ơn cụ. Rồi ông nói nhỏ như chỉ vừa đủ mình nghe: Ngoạt thì đúng hơn!?
Bà cụ vừa bỏm bẻm nhai trầu, vừa nhẩn nha:
- Bây giờ người ta đặt lại tên mới hết rồi.
Nghe bà cụ nói vậy, ông khách ngẩn người ra. Trên đôi vai gầy bé nhỏ nhô cao là chiếc ba lô nặng trĩu, bạc màu, nghiêng lệch sang một bên. Đưa tay quệt ngang mồ hôi, ông ta tìm chỗ ngồi, mở nắp ba lô lấy tờ báo cũ xòe ra làm quạt. Phe phảy được vài cái chiếu lệ, thấy bà cụ nhìn mình chằm chằm, ông hỏi:
- Cụ cho tôi xin chén nước vối.
- Tôi chỉ có chè vằng. Nước vối không bán giờ này nữa.
Ông khách hơi sững người như vừa chạm vào một điều gì đấy, rồi lắp bắp:
- Vâng, chè vằng cũng được ạ.
Đỡ lấy bát nước bà lão đưa, ông khách uống chầm chậm từng ngụm nhỏ một cách khổ sở. Thấy ông ta cứ phe phảy quạt, không nói gì, bà lão hồ nghi:
- Mà ông từ đâu về? Sao lại về vào giờ này?
- Tôi từ Tây Nguyên ra. Đi mấy ngày liền. Xe hỏng dọc đường.
- Ông tìm ai ở làng Yên Ngoạt? Tôi là người làng đây!
- Thật vậy hả cụ?
Người đàn ông ngước mắt, vẻ mừng rỡ hiện rõ. Ông ta nhìn lướt qua khuôn mặt nhăn nheo của bà lão một cách thận trọng, dò xét rồi bộc bạch có vẻ thân mật hơn:
- Chắc cụ biết nhà ông Có?
- Cả làng đều biết. Mà ông quan hệ thế nào với địa chủ Có?
Nghe bà cụ bất chợt hỏi, ông khách lúng túng một lát rồi nói đầy vẻ tính toán:
- Thì là người làng thôi, ngày xưa gia đình nhà tôi cũng đi ở cho nhà ông Có. Chẳng biết số phận ông ấy thế nào?
Bà cụ hàng nước thở phào, nhả miếng bã trầu vào cái ống nhổ bằng đồng sứt miệng rồi thở phào:
- Khi còn giàu sang phú quý, có thằng con trai nhưng cưng chiều cho lắm nên thành ra hư hỏng. Mới độ mười lăm, mười sáu gì đấy, nghe đâu đã hãm hiếp con sen, con ở. Khổ thân cái con bé Sún, có chửa mà phải giấu biệt, dùng dây vải bố buộc chặt cứng bụng vào cho đến ngày sinh nở, không ai hay biết gì. Đẻ ra thằng bé thiếu tháng, ốm o, dặt dẹo, cho chẳng ai lấy… Mẹ chết. Con Sún không còn nơi nương tựa. Dân làng chì chiết, dè bỉu, lánh như lánh hủi. Nó tủi nhục quá mà bỏ làng đi đâu không ai rõ. Mấy chục năm rồi chả ai trông thấy mặt mũi mẹ con nó đâu, rõ tội.
Ông khách ngồi nghe, miệng khô khát và đắng nghét. Ông chìa cái bát:
- Cụ cho xin bát nữa.
Cụ già vừa rót chè cho khách, vừa say sưa kể về một thời làng Yên Ngoạt, như thể lâu lắm, chả có ai rỗi rãi mà ngồi nghe cụ kể. Như thể cụ mà không kể lại thì câu chuyện làng sẽ mai một và biến mất không ai hay. Lần này, có vẻ như đã quen với vị chè ngai ngái, hăng hắc, ngòn ngọt đầu lưỡi, khuôn mặt người đàn ông trở nên bớt căng thẳng, có phần đăm chiêu, tư lự. Nước chè vằng chạy vào huyết quản, đã lan nhanh khắp cơ thể, đi đến từng ngõ ngách vào sâu trong tận cùng của miền hồi ức xa xăm. Cạn bát chè, ông khách vội trả tiền, bước nhanh ra khỏi quán và đi về phía bà cụ đã chỉ.
Làng Yên Ngoạt đang ở hướng trước mặt. Trời đã tối hẳn. Đêm cuối tháng vắng sao, tối đen như mực. Xa xa, những bờ tre bao quanh làng thâm u, gió thổi nhè nhẹ, tiếng tre vặn mình kêu răng rắc. Người đàn ông lê từng bước trĩu nặng, thao thiết với nhiều tâm trạng trong một chuyến trở về.
***
Mấy chục năm trước, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa thực hiện trao trả tù binh và đón cán bộ miền Nam ra Bắc tập kết. Thằng Phạ đã len lỏi trong đám tàn quân, mon men lên được một chuyến tàu chở quân Pháp bại trận vào miền Nam.
Cuộc sống lang thang chốn đô hội Sài Gòn đã cho hắn bao nhiêu kinh nghiệm để tồn tại và bảo toàn mạng sống. Hắn tìm đến các băng nhóm côn đồ, bất hảo để kết giao. Và hắn thực sự trưởng thành trong cái môi trường đen tối, nhộm nhoạm ấy, cứ như trong con người hắn, vốn đã sẵn có nguồn gen lưu manh.
Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, hắn có vẻ đã ngán ngẩm với cảnh đâm thuê chém mướn, cướp bóc vô tội vạ, nên lân la dò hỏi và xin được chiêu mộ lính cộng hòa. Âu cũng là cái cách gió chiều nào che chiều ấy thôi, chứ hắn biết, đi lính cộng hòa là để giết người. Bước ngoặt đời hắn là cái lần hộ giá viên trung tá ngụy trên cảng Sài Gòn không may trúng một viên đạn lạc vào mắt cá chân. Nhổ mãi không được. Cạy mãi không ra. Hắn quyết định ghé mồm cắn. Hắn vẫn quyết cắn lấy đầu đạn lôi ra bằng được. Vừa ra khỏi chân, một dòng máu bầm đen phọt ra theo vết đạn, viên trung tá cắn răng, khụy xuống. Hắn cười hềnh hệch, tiếp tục cúi xuống bình thản thò mồm hút hết máu bầm, rồi vò nát điếu thuốc lá, nhét vào vết thương, cởi chiếc khăn dù rằn ri ra buộc tạm cầm máu. Xong, đưa trung tá vào quân y viện. Sau đận ấy, viên trung tá tìm hiểu về hắn và được biết hắn là dân “Năm Tư”, nên cảm kích lắm.
- Mày muốn đi học y sĩ không?
- Làm gì vậy thưa trung tá?
- Để ít nhất mày không phải làm bia đỡ đạn!
Nghe nói đến “không làm bia đỡ đạn” là hắn thích rồi. Học xong quân y sĩ, hắn được đẩy lên Tây Nguyên. Không phải trực tiếp bắn giết, không phải làm bia đỡ đạn mà chỉ cứu người thôi. Hồi ra khỏi làng, trong đầu hắn, cái đầu chứa đầy sự oán hận chưa từng mơ đến việc cứu người bao giờ.
Nhưng hắn bị bắt sống tại đồn Plei Me trong lúc đang cứu chữa thương binh. Một thằng lính dù bị một trái phá nổ làm đui một mắt. Hắn động viên tên lính: “Cố lên, cựa quậy sẽ mất máu, đừng rên nữa, cố lên mà sống”.
- Ngồi im. Giơ tay lên!
Khẩu lệnh của người lính Việt cộng làm hắn giật thót người và buông rơi miếng gạc loang lổ máu. Hắn từ từ giơ tay lên, tim đập thình thịch. Hắn không cử động được gì cho đến khi người lính Việt cộng nhìn tên lính dù thoi thóp, hạ lệnh:
- Tiếp tục đi!
Lúc này, hắn mới cúi xuống. Đúng lúc tên lính dù hộc lên một tiếng như bò đực rống, đầu nghẹo sang một bên rồi trút hơi thở cuối cùng. Mồm hắn há hốc, méo xệch, mắt hắn dại đi...
Hắn được lệnh mang theo cả túi cứu thương để cứu thương binh Việt cộng. Đang hoang mang tột độ cho số phận mình, không biết điều gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe tiếng rên của thương binh Việt cộng đang nằm trên cáng vừa đưa từ phía trận địa trở về, thì hắn nghĩ, hắn còn lành lặn thế này là may mắn lắm rồi. Hắn phải trả ơn cho cái sự may mắn trước đã. Phải cứu người, cho dù anh ta là ai. Hắn bắt tay ngay vào việc cầm máu, thăm khám, khử trùng, băng bó…
Ngồi đối diện với hắn là một cán bộ sĩ quan Việt cộng. Bên chiếc bàn làm việc được kê bằng hai hòm đạn pháo tám lăm nòng dài, vị cán bộ cất tiếng:
- Phạ! Anh là tù binh của chúng tôi kể từ giờ phút bị bắt. Nhất cử nhất động của anh đều trong tầm kiểm soát của chúng tôi. Chúng tôi đã được lệnh của cấp trên, cho phép anh ở lại trận địa, trực tiếp cứu chữa thương binh, lập công chuộc tội. Đó là cơ hội của anh.
Quả tim hắn lại một lần nữa loạn nhịp. Rơi vào tay Việt cộng mà sống sót là điều lạ kỳ. Bọn tâm lý chiến đã tẩy não lính như thế. Hắn dạ rất nhanh và nét mặt lộ rõ vẻ biết ơn với người đối diện.
Công việc cứu thương ngoài chiến trường đưa hắn đi theo hết trận đánh này đến chiến dịch kia và hắn luôn một lòng tận tụy, chu đáo. Hắn được cách mạng tha bổng, được tự do, được tự quyết định phần đời còn lại. Hắn chọn mảnh đất Tây Nguyên, sống một cuộc đời đạm bạc cho đến ngày không thể cưỡng lại ý muốn phải tìm về quê quán. Một lần thấy mặt quê, thấy mặt nơi chôn nhau cắt rốn, rồi nhắm mắt cũng yên lòng.
***
Ông khách đã về tới làng Yên Ngoạt lúc bóng đêm che phủ mọi ngõ ngách làng xóm, che phủ lên mọi thông tin dù chỉ còn là mơ hồ. Tên địa chủ Đào Có đã thành người thiên cổ. Và ông biết, nơi này không hề nghĩ đến ngày thằng Phạ trở về. Không ai nhận ra ông cả. Rồi ông tự an ủi. Được người đời quên đi, có nghĩa là đã được tha thứ. Thế là hạnh phúc rồi.
Chiều hôm ấy, ông ta lặng lẽ đến bên ngôi mộ mới đắp lại phía góc trong cùng của nghĩa trang làng. Trên nấm mộ lác đác những chân nhang cũ mới. Ông khách chợt thấy ấm lòng. Khi khói nhang bay lên, bóng ông ta chùng xuống thấp hơn ngôi mộ, đôi vai gầy nhấp nhô, rung rinh theo những vòng khói bay bay…
Người đàn ông quay ra bến xe thị xã. Cũng vào buổi nhá nhem. Dừng chân quán nước bà cụ người làng Yên, ông khách cất tiếng gọi thân thuộc như thể mình là khách quen lâu lắm rồi.
- Cụ cho xin bát chè vằng.
Bà cụ nhận ra ông khách hôm nào nên vội vàng rót chè. Đưa bát chè cho khách, cụ hỏi luôn.
- Ông trở vào Tây Nguyên vội thế sao? Thế nào, Nguyệt hay Ngoạt?
Ông khách mỉm cười, hóm hỉnh:
- Cảm ơn cụ, trong tôi, nó mãi là Ngoạt thôi. Cũng như hương vị bát chè vằng này vậy, dù họ có đặt cho nó tên gì thì nó vẫn là chè vằng.
Cụ già móm mém cười nhân hậu:
- Thế mà có khối người không nuốt được thứ chè nhà quê này đâu.
Truyện ngắn của NGUYỄN MINH ĐỨC