Vừa đặt chân đến đầu làng Đại Đồng, mùi đỗ xanh đồ chín thoang thoảng trong gió. Hơi khói ấm phảng phất từ những gian bếp nhỏ. Được người dân giới thiệu, tôi tìm đến nhà nghệ nhân Nguyễn Thị Lự đã gần 40 năm gìn giữ nếp nghề gia truyền.
 |
| Nghệ nhân Nguyễn Thị Lự làm món chè kho. |
Bên dưới mái hiên cũ, những khay đỗ đang được hong cho ráo nước. Cạnh bếp, mẻ chè kho vừa xay mịn được bà Lự nén vào khuôn. Nghề nấu chè kho với bà Lự không phải một lựa chọn, mà là nếp sống truyền bao đời. Gần 40 năm qua, từ những ngày khó khăn đến khi làng nghề nhộn nhịp vào dịp Tết, bà vẫn giữ một nguyên tắc là chọn nguyên liệu tốt và sự tỉ mỉ trong từng công đoạn.
Để làm được món chè kho ngon, ngay từ khâu chọn đậu xanh đã phải tỉ mỉ, cẩn thận. Đỗ xanh để làm chè kho phải là loại ngon, hạt mẩy, đều, được đãi sạch để loại bỏ bụi bẩn, tạp chất. Người làm chè phải qua nhiều công đoạn như ngâm đỗ, đãi vỏ, đồ, đánh nhuyễn, đổ khuôn. Đỗ được ngâm trong nước lạnh ít nhất 6-8 tiếng với chút muối tinh hoặc ngâm qua đêm để hạt đỗ nở ra, mềm hơn khi nấu. Tiếp đó, đỗ được đãi vỏ sạch, bỏ hạt hỏng, trộn với đường. Tỷ lệ đường - đậu cũng là bí kíp riêng, làm sao cho chè không quá ngọt, để được lâu mà không mốc, đánh nhuyễn đỗ cũng phải để ý lửa, khuấy đều tay, tránh làm cháy, gây mùi khét và mất màu vàng đẹp.
Bà Lự kể rằng: “Ngày trước, công đoạn sên đỗ là vất vả nhất. Không có máy móc như bây giờ, tôi phải đứng bên bếp hàng giờ, đảo tay liên tục cho đến khi đỗ quánh lại, mịn và không bị bén nồi. Bây giờ có máy móc hỗ trợ, công việc nhẹ hơn nhiều, nhưng tôi vẫn luôn kiểm tra kỹ từng mẻ để giữ đúng độ mịn và hương vị truyền thống”.
Toàn xã Thạch Thất hiện có hơn 40 hộ theo nghề, mỗi năm sản xuất hàng trăm tấn chè kho. Nhiều cơ sở tham gia chương trình OCOP và đạt chứng nhận 3 - 4 sao. Dù làm nhiều nhưng trong ngôi nhà nhỏ của bà Lự, người ta vẫn tìm thấy hương vị mộc mạc như xưa.
 |
Chè kho Đại Đồng nức tiếng xứ Đoài.
|
Nhìn những khuôn chè vàng óng, nhiều người tưởng món chè kho chỉ là đỗ xanh xay nhuyễn. Nhưng như bao nghề truyền thống khác, tinh hoa nằm ở những công đoạn tưởng chừng giản đơn. Chỉ cần đỗ chưa chín tới, chè sẽ lợn cợn. Chỉ cần khuôn nén không khéo, chè bị vỡ mặt. Mỗi khâu đều đòi hỏi sự chăm chút như thể người làm đang đặt cả tấm lòng vào đó.
Cũng bởi sự cầu kỳ ấy mà mỗi dịp Tết, căn bếp nhà bà Lự đỏ lửa suốt ngày đêm. Người làng, khách huyện, rồi cả người Hà Nội về tận đây đặt chè kho, có người đặt vài miếng để cúng gia tiên, có người mua cả chục hộp làm quà.
Chè kho không chỉ là một món ăn dân dã của vùng quê Đại Đồng mà còn là nơi lưu giữ hồn cốt văn hóa của người Việt. Trong vị ngọt thanh của đỗ xanh, trong màu vàng óng mịn màng của từng khuôn chè là ký ức về những ngày giáp Tết, về gian bếp đỏ lửa, về bàn tay tảo tần của bao thế hệ. Món ăn tưởng giản dị ấy lại mang theo tinh thần cần cù, sự khéo léo và tình cảm gắn bó với quê hương – những giá trị làm nên bản sắc văn hóa dân tộc, để dù đi xa đến đâu, người ta vẫn thấy lòng mình chùng lại mỗi khi nhớ đến hương vị chè kho xứ Đoài.
Tạm biệt bà Lự khi trời đã ngả chiều, hương đỗ xanh còn vấn vít trong gió như níu bước chân người đi xa. Những khuôn chè kho vàng óng, mộc mạc tưởng chừng chỉ là món quà đơn sơ, nhưng trong đó là cả lớp lớp ký ức, là nếp sống của một làng nghề, là sự kiên trì của những người phụ nữ dành cả đời để gìn giữ hương vị truyền thống của miền quê xứ Đoài.