QĐND - Nhân kỷ niệm 1001 năm Thăng Long-Hà Nội, từ ngày 6-10 đến 31-11, tại Bảo tàng Bắc Ninh (tỉnh Bắc Ninh) có triển lãm chuyên đề “Văn miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội và các di tích Nho học Bắc Ninh”. Triển lãm giới thiệu hơn 500 tư liệu hiện vật, hình ảnh chia thành 3 chuyên đề: Lịch sử hình thành và phát triển của Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội; lịch sử chế độ khoa cử Việt Nam; các di tích Nho học Bắc Ninh. Rất nhiều hiện vật gốc được khai quật tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội và Văn Miếu Bắc Ninh cũng được trưng bày trong triển lãm lần này.
Nhịp cầu nối quá khứ với hiện tại
Xúc động và tự hào là những tình cảm dâng đầy trong ánh mắt của rất nhiều vị khách tham quan triển lãm “Văn Miếu- Quốc Tử Giám Hà Nội và các di tích Nho học Bắc Ninh”. Tôi cũng chung niềm tự hào, kiêu hãnh nhưng không khỏi băn khoăn về việc học hành, thi cử hôm nay.
Dân tộc ta hiếu học, thời nào cũng vậy. Thời phong kiến trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, nhưng việc học hành, thi cử nghiêm túc, trong sáng, chọn đúng người tài đức giúp dân, giúp nước. Cả nước tôn thờ đạo học, cả nước có thành tựu học hành khoa bảng, mà một trong những vùng đất học có tiếng từ xưa là Kinh bắc-Bắc Ninh.
 |
Hậu duệ của các nhà khoa bảng trong không gian học tập xưa. |
Truyền thống hiếu học của Kinh bắc thể hiện bằng con số 616 vị Đại khoa trong tổng số 2.898 vị tiến sĩ; 23 vị trong 103 vị tế tửu, tư nghiệp được lưu danh trong bia tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám ở Hà Nội. Ở vùng quê này, truyền thống hiếu học được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như một tất yếu của dòng họ. Có thể nhắc tới: Họ Nguyễn làng Kim Đội, họ Nguyễn và họ Phạm ở Vĩnh Kiều, họ Quách làng Phù Khê, họ Ngô làng Vọng Nguyệt… Tự hào thay cho những con người hôm nay đến xem triển lãm để tra tên tổ tiên trên bảng vàng. Hạnh phúc thay cho những dòng tộc được trưng bày bảo vật văn hóa. Nào là “văn phòng tứ bảo” (Giấy, mực, bút, nghiên), nào là hoành phi, câu đối, gia phả, sắc phong… Nhiều hiện vật được vua ban cũng trưng bày trong triển lãm này.
Tôi gặp cụ Đỗ Ngọc Uẩn, hậu duệ của "Trung Trạng nguyên" Nguyễn Quang Bật (Trạng nguyên năm 1484). Cụ Uẩn kể lại sự tích về cụ tổ Nguyễn Quang Bật bị vua Lê Uy Mục sai quân dìm chết dưới sông Phúc Giang vì từng can gián vua Lê Hiến Tông không truyền ngôi cho Lê Uy Mục, do bất tài. Từ đó, con cháu họ Nguyễn phải đổi thành họ Đỗ. Sau này đến đời Tương Dực Đế ngự ban cho lá cờ thêu ba chữ “Trung Trạng Nguyên”. Trung Trạng Nguyên Nguyễn Quang Bật đã hết lòng vì nước, không quản an nguy của cả họ mà ngăn vua không chọn kẻ bất tài. Sự hy sinh đó càng làm ngời thêm khí phách của những bậc sĩ phu yêu nước. Tôi hỏi cụ Uẩn do đâu mà biết sự tình đó, cụ cười mà đáp: “Đọc từ gia phả và Đại Việt sử ký toàn thư chứ đâu”. Nay trong triển lãm cũng trưng bày những di vật của Trung Trạng Nguyên Nguyễn Quang Bật. Đó chính là sự ghi nhận của hậu thế về công đức của cụ.
Ông Nguyễn Khắc Hồng, trưởng họ Nguyễn ở Yên Phong; cụ Nguyễn Thế Quý, họ Nguyễn ở Vĩnh Kiều… thảy đều xúc động khi thấy ảnh văn từ, văn chỉ, từ đường, bia ký của họ mình, làng mình cũng được trưng bày trong triển lãm. Mọi người kể, trong làng, trong họ náo nức lắm, nhưng biết khai mạc triển lãm là việc trọng của tỉnh nên chưa dám đến, hẹn từ nay đến cuối tuần cả họ, cả làng phải ra xem.
Ông Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng Bắc Ninh cho biết: “Hiện nay hệ thống di tích Nho học trong tỉnh Bắc Ninh còn được lưu giữ rất phong phú, đa dạng. Ngoài hệ thống văn miếu hàng tỉnh, văn miếu hàng huyện và văn miếu hàng xã còn các văn từ, văn chỉ ở các huyện, các xã. Rồi rất nhiều nhà thờ, từ đường của các dòng họ hiện lưu giữ vô vàn hiện vật, tư liệu liên quan đến di sản Nho học”. Truyền thống khoa bảng vẻ vang của vùng Kinh Bắc khó có thể nói lại trong một chốc, một lát, chỉ biết rằng, tới nay các hội đồng môn, đồng khoa, hội khuyến học, tục tết thày… vẫn còn hiện diện khắp nơi. Dân gian Kinh bắc còn để lại câu ví rất đáng tự hào về quê hương mình: Một giỏ ông đồ, một bồ ông cống, một đống ông nghè, một bè tiến sĩ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn. Niềm tự hào đó là một kiểu bản sắc vùng miền.
Văn hóa Kinh bắc cùng với văn hóa Xứ Đông, Xứ Đoài, Lĩnh Nam đã hội tụ với văn hóa Thăng Long để tạo thành bức tranh phong phú, sinh động về văn hóa Kinh thành, văn hóa Thăng Long, mà chế độ khoa cử là một minh chứng hùng hồn cho tinh thần hiếu học của người Việt vậy.
Việc học, phải học cha ông rất nhiều
Thực ra không riêng gì Bắc Ninh, mà ở các tỉnh, thành phố khác như Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định… đều có hệ thống di sản Nho học rất đa dạng phong phú. Dù chỗ ít, chỗ nhiều song đời nào cũng có nhân tài kiệt hiệt góp tài, góp sức cho Đại Việt. Điều này có khởi nguyên sâu xa từ nền “giáo dục nhân dân” mà chế độ khoa cử thời xưa để lại. Tìm hiểu qua nhiều nguồn sử khác nhau có thể thấy một điểm chung về chế độ ở các triều đại. Về thể thức, thi Hương và thi Hội phải qua 4 kỳ (còn gọi là 4 trường), đỗ kỳ trước mới vào kỳ sau, những nội dung thi Hội ở trình độ cao hơn. Phép thi quy định: Kỳ 1 thi Kinh nghĩa; kỳ 2 thi chế, chiếu, biểu; kỳ 3 thi: thơ, phú; kỳ 4 thi: văn sách. Thi Hương tổ chức tại địa phương. Các xã, phường trưởng xét thực học của các học trò trong xã phường, ai thông văn lý, đủ tiêu chuẩn thì kê sổ, mở rộng đường lấy người tài giỏi. Thi Hội tổ chức ở Kinh đô. Trúng thi Hội thì được vào thi Đình, đề do vua soạn, thường hỏi về đạo trị nước và sử dụng hiền tài. Thi Đình sẽ chọn ra: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Phó bảng. Thi Hương chọn ra: Hương cống, Sinh đồ. Tất cả các kỳ thi đều xét kiến thức của thí sinh qua các tài liệu: Tứ thư (Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử) và Ngũ kinh (Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch và Kinh Xuân thu).
 |
Nhà giáo nhân dân, Anh hùng lao động Nguyễn Đức Thìn giới thiệu với du khách về truyền thống học tập của Bắc Ninh. |
PGS, TS ngành Hán-Nôm Nguyễn Văn Thịnh nói: “Chế độ khoa cử xưa không phân biệt các trường Quốc học (Quốc Tử Giám) với các trường tư. Các thí sinh đều được quyền lợi ngang nhau. Chính vì thế mà hệ thống trường tư được mở rất nhiều trong khắp cả nước. Trong lịch sử có các trường tư của Chu Văn An (thời Trần), Nguyễn Bỉnh Khiêm (thời Lê-Mạc) đã đóng góp cho Nhà nước rất nhiều nhân tài”.
Dễ thấy với hệ thống trường công, trường tư, mà đỉnh cao của nền văn hiến hội tụ tại Kinh thành Thăng Long đã có sức lan tỏa khắp các vùng, miền trong mọi khu vực từ Nam chí Bắc. Đâu đâu cũng dễ gặp những văn miếu, văn từ, văn chỉ, bảng vàng, bia đá, sắc phong, thần phả… ghi lại truyền thống hiếu học của dân tộc.
Một điều thú vị trong chế độ khoa cử thời các triều đại phong kiến, đó là việc tuyển dụng nhân tài. Bất luận đó là người học ở đâu, đỗ đạt gì nếu có tài, có thực lực sẽ được trọng dụng. Đại Việt thông sử, trang 93 chép lời chiếu của vua Lê Thái Tổ vào năm Thuận Thiên thứ 2 (1429): “…Vậy các khanh văn võ đại thần, công hầu đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi vị phải tiến cử một người, bất luận người đã làm quan tại triều, người chưa làm quan còn ở nơi thôn dã, hễ có tài văn võ trí thức, có thể cai trị nhân dân, trẫm sẽ tùy tài bổ dụng…”.
Văn bia Văn Miếu-Quốc Tử Giám còn ghi lại những lời dạy của vua với nhân sĩ, trí thức dù đã được ghi danh bảng vàng rồi nhưng nếu sống không có đức sẽ bị người đời sau chỉ bia ký mà mắng. Mới hay, bia ký có vinh có nhục, được rạng danh nhưng nếu không khéo sẽ bị tiếng nhơ để đời. Trích văn bia khoa thi năm 1478: Nếu kẻ nào nhờ vào việc thi đỗ để làm cái cầu ấm no, mượn con đường ấy để làm lối tắt ra làm quan, chỉ biết mưu cho thân, không nghĩ đến việc nước thì người ta sẽ chỉ tận tên mà nói: kẻ này gian, kẻ này nịnh, kẻ này đặt việc nhà lên trên việc nước, làm gầy người béo mình, kẻ này hãm hại người thiện, bè đảng với lũ gian, nhơ nhuốc cho khoa mục.
Trải qua suốt 8 thế kỷ, nền giáo dục khoa cử Nho học đã đào tạo nên một đội ngũ trí thức, quan lại Nho học có những đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của đất nước và dân tộc. Đến nay, nhiều điều hay trong chế độ khoa cử xưa còn để người đời phải ngẫm ngợi. Truyền thống hiếu học của tiền nhân thôi thúc mỗi người chúng ta rèn trí, luyện tài để phụng sự Tổ quốc và dân tộc. Thật đáng học lắm thay!
Bài và ảnh: Lê Đông Hà