Nguyễn Tài Tuệ sinh ngày 15-5-1936. Quê ở Thanh Chương, Nghệ An, cùng dòng họ Nguyễn Tài với nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, năng khiếu âm nhạc của ông đã được vun đắp và nảy nở ở vùng tự do khu IV thời chống Pháp.
Bởi thế, ngay từ năm 1955, khi hòa bình lập lại trên miền Bắc sau hiệp định Geneva, Nguyễn Tài Tuệ đã được tuyển vào Đoàn ca múa nhân dân Trung ương. Chính ở đây, ông bắt đầu có những sáng tác âm nhạc đầu tiên.
Việc được biệt phái lên Đoàn ca múa Lào-Hà-Yên (Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái) đã làm phong phú thêm tâm hồn chàng nhạc sĩ xứ Nghệ vốn chỉ quen với câu ví, điệu giặm... Âm hưởng dân ca Tây Bắc và Việt Bắc đã tràn vào tâm hồn thanh xuân phơi phới với những ước vọng sáng tạo. Ngay năm 1957, Nguyễn Tài Tuệ đã có một hợp xướng nhỏ thấm đẫm âm hưởng của người Nhắng kết hợp nhuần nhuyễn với giai điệu Tày, Nùng tạo ra một không gian âm thanh khác biệt cho một thời đại mới.
 |
Nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ. Ảnh: NGUYỄN ĐÌNH TOÁN |
Cũng từ mùa xuân ấy, nét nhạc sli, lượn của người Tày, Nùng đã ập vào ca khúc “Mùa xuân gọi bạn” tươi roi rói mà thời ấy ấn hành với cái tên “Bài ca gửi Noọng”, phần lời tiếng Nùng của Vương Hữu Văn...
Nhờ những năm tháng chìm đắm trong sương mờ âm hưởng rẻo cao phương Bắc đã đưa sáng tạo âm nhạc của Nguyễn Tài Tuệ lên một tầm cao của thời đại mới vào năm kỷ niệm Bác Hồ kính yêu tròn “nhân sinh thấp thập cổ lai hy” với bài hát nổi tiếng “Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó”: “Trông vời lưng núi/ Khuổi Nậm rì rào núi cao tầng mây/ Chiều nay tiếng ai đang “lượn” về trên đèo...”.
Ca khúc đã bước ngay vào bộ sưu tập những bài ca viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh-vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. “Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó” đã được nhạc sĩ Đỗ Dũng chuyển soạn thành hợp xướng không dàn nhạc đệm (Acappella) độc nhất vô nhị. “Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó” đã đưa Nguyễn Tài Tuệ trở thành một tên tuổi trong làng nhạc Việt tuy tuổi đời mới “tam thập nhi lập”. Ông là một tài năng thuộc dòng hệ “chín sớm”.
Sau khi phiêu du cùng sương mù rẻo cao, tài năng sáng tạo đã đưa ông về Ban nghiên cứu âm nhạc thuộc Bộ Văn hóa lúc ấy (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Thời gian này, Nguyễn Tài Tuệ trở lại xứ Nghệ qua bài hát “Xa khơi”.
Khi đó chỉ viết để dành tặng nữ ca sĩ Tân Nhân-một giọng vàng của nền thanh nhạc Việt Nam. Người ta nghe “Xa khơi” thì thấy hay, thấy cuốn hút trong một không gian âm thanh mênh mang một khát vọng thống nhất đất nước để lứa đôi sum họp, cùng giong thuyền “Lướt sóng liền đôi bờ tung tăng/ Con chuồn còn bay nơi nơi/ Con giang chiều gọi bạn đường khơi...”.
Nhưng ít người biết Nguyễn Tài Tuệ đã gửi vào đó sự đồng cảm về những nỗi riêng tư của nữ ca sĩ đầy trắc ẩn với một người nhạc sĩ ở phương Nam xa xôi, bằng một tình yêu bồng bột và nồng nàn thời thanh xuân. Ngay lập tức, “Xa khơi” cũng bước vào kho tàng âm nhạc cùng những tình ca ít ỏi ở miền Bắc thời thanh bình của một thập kỷ xây dựng (1954-1964).
Từ năm 1966 đến 1972, Nguyễn Tài Tuệ được cử đi học học sáng tác âm nhạc bậc đại học tại Nhạc viện Bình Nhưỡng (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên). Bởi thế, ông vắng bóng trong bộ sưu tập ca khúc thời chống Mỹ.
Ông về nước với những tác phẩm khí nhạc, như: Thơ giao hưởng “Những cánh chim cao nguyên”; đại hợp xướng “Những năm tháng không quên”; hai tác phẩm “Kỷ niệm quê hương” viết cho violon cello và piano. Cũng là âm hưởng ví giặm nhưng ở “Xôn xao bến nước” viết năm 1976 đã thấy ấn tượng hàn lâm trải dài trong tác phẩm qua những nốt thăng ở từng tiết nhạc.
Vào thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, Nguyễn Tài Tuệ đằm lại theo tuổi tác. Ông tìm cách phổ nhạc bài thơ “Cô hái mơ” của Nguyễn Bính. Năm mươi năm trước, “Cô hái mơ” chính là nhạc phẩm đầu tay của Phạm Duy trong một chiều đi qua hiệu sách Ngoạn ở phố Cầu Gỗ cùng nhạc sĩ-họa sĩ Nguyễn Đình Phúc, tạo nên một nét vàng son cho tân nhạc thời kỳ đầu.
Sau nửa thế kỷ, bài thơ “Cô hái mơ” lại có thêm một tác giả phổ nhạc là Nguyễn Tài Tuệ. Cùng là một tác phẩm phổ nhạc, nhưng nhận cảm của Phạm Duy ở một mặt hồn nhiên, dân dã của Nguyễn Bính còn nhận cảm của Nguyễn Tài Tuệ có phần suy tư hơn mà Nguyễn Bính đã giấu ẩn sau con chữ.
Câu chuyện này đã cho thấy một thực tế về sự bất tử của thơ Nguyễn Bính. Ngỡ mọi điều đã khép lại thì nửa thế kỷ sau lại mở ra như chưa có tiền lệ. Nó còn cho thấy sức sáng tạo của hai nhạc sĩ ở hai thế hệ khác nhau.
Nhiều năm qua, tuy không công bố những nhạc phẩm mới song Nguyễn Tài Tuệ vẫn luôn hòa mình vào đời sống âm nhạc đương đại.
Ông có tiếng nói trọng lượng trong vấn đề bảo vệ bản quyền tác giả âm nhạc. Với những cống hiến cho nền âm nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học-Nghệ thuật đợt I (2001), Huân chương Lao động hạng Nhì...
Xin vĩnh biệt người đàn anh quý mến, một người con xứ Nghệ ngay thẳng và tài năng!
Nhạc sĩ NGUYỄN THỤY KHA