QĐND - Từ bao đời nay, chiếc cối giã gạo nước đã trở thành vật dụng quen thuộc của đồng bào các dân tộc vùng cao. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, những chiếc máy xay xát ra đời đã vô tình làm chiếc cối giã gạo nước dần biến mất trong đời sống nhân dân. Một nét văn hóa đặc trưng của đồng bào các dân tộc vùng cao cũng vì thế mà ngày càng mai một.
Trong chuyến công tác lên tỉnh Lai Châu mới đây, chúng tôi có dịp đến thăm ông Lý Văn Đấu, người dân tộc Dáy, trú tại bản Giẳng, xã Mường Tè, huyện Mường Tè. Gia đình ông là một trong những hộ hiếm hoi còn giữ lại chiếc cối giã gạo nước truyền thống. Ông cho biết, bao năm nay gia đình ông vẫn giữ thói quen ăn gạo được giã bằng cối nước. Bởi theo ông, cơm được nấu từ gạo giã cối bao giờ cũng ngon và chất lượng hơn gạo đã qua máy xay xát. Hơn nữa, đó là một nét văn hóa lâu đời của cha ông để lại nên ông muốn gìn giữ, không muốn nó bị mai một theo thời gian.
 |
| Tham quan chiếc cối giã gạo nước của gia đình ông Lý Văn Đấu. |
Dẫn chúng tôi ra khu vực bờ suối gần nhà, chỉ vào hai chiếc cối giã gạo nước của gia đình, ông Lý Văn Đấu tự hào khoe: “Những chiếc cối này gắn bó với gia đình mình hơn 20 năm rồi đấy! Làm bằng gỗ tốt nên nó bền lắm”. Rồi chưa kịp để chúng tôi hỏi thêm, ông say sưa nói về chiếc cối giã gạo nước nhà mình như nói về một vật gì đó thiêng liêng, gắn bó: “Cối giã gạo cơ bản giống nhau thôi. Việc thiết kế nó cũng đơn giản lắm. Cối thường làm bằng gỗ nghiến, gỗ lim. Ở những nơi không có lim, nghiến, người ta tìm những loại cây có thể chịu được độ ẩm cao để làm cối. Những chiếc cối này thường được đặt ngoài đồng, gần suối, nơi có dòng nước chảy từ cao xuống thấp. Để nắng, mưa không ảnh hưởng đến gạo, người ta thường làm thêm căn lều nhỏ che cối ngoài trời".
Qua quan sát, chúng tôi nhận thấy cấu tạo của chiếc cối giã gạo nước cũng rất đơn giản, gồm: Một chiếc cần dài và thẳng, được bắc lên một cây ngáng. Đầu cối đặt một cái máng. Thành máng đứng thẳng ba mặt. Mặt ngoài vát như đầu thuyền để cối đổ nước được dễ dàng. Phần cần cối dài gấp bốn, năm lần máng, đánh thót lại. Người ta cũng có thể đánh tròn như cột nhà hay đánh thành tám cạnh, tùy sở thích của gia chủ. Khi nước chảy đầy máng sẽ tự động nâng cần cối lên, nước chảy ra hết, cần cối lại hạ xuống và giáng chày vào cối gỗ để gạo phía trước, rồi lại nâng lên bởi nước đầy, cứ thế, cối miệt mài giã cả ngày, cả đêm không biết "mệt mỏi".
Theo bà Lý Thị Diện, vợ ông Đấu, hằng ngày, thường là buổi chiều, các gia đình có cối giã gạo mang thóc đã xay qua đổ vào cối, sau một đêm đem về sàng sẩy, họ sẽ có những đấu gạo trắng bong, cám mịn mát lòng bàn tay. Khi gạo đem nấu thành cơm bảo đảm giữ được nguyên vẹn vị ngọt và độ thơm, dẻo. Cũng theo bà Diện, trước đây nhà nào trong bản Giẳng cũng có ít nhất hai chiếc cối giã gạo nước, nhưng đáng buồn là số cối hiện nay chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay. Chỉ còn vài ba gia đình vẫn đang duy trì hoạt động của chiếc cối giã gạo nước. Cũng giống như gia đình bà, họ muốn giữ lại một nét văn hóa truyền thống riêng có của đồng bào các dân tộc Tây Bắc đã tồn tại từ hàng ngàn đời nay.
Bài và ảnh: HỒNG NGUYỄN