QĐND - Ngày 30-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, giang sơn thu về một mối. Đã gần 40 năm trôi qua, thế hệ những người làm báo Báo Quân đội nhân dân giai đoạn đó đều đã nghỉ hưu, nhưng trong họ những kỷ niệm về một thời làm báo được gắn với sự kiện trọng đại của dân tộc…vẫn vẹn nguyên trong ký ức.
 |
Đại tá Mạnh Hùng thăm Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Đường 9 ngày 16-12-2014. Ảnh: NGUYỄN TRUNG THÀNH.
|
Những hướng mũi phóng viên
Sau mùa xuân, mùa hè đỏ lửa Quảng Trị, Tây Nguyên rồi mùa đông hạ pháo đài bay B52, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước sang giai đoạn hoàn toàn mới. Năm 1973-1974, phóng viên Báo QĐND tiếp tục được tung đi các chiến trường miền Nam ngày càng nhiều hơn.
Sau khi Phó tổng biên tập Trần Công Mân từ miền Trung, Tây Nguyên trở về, cuối năm 1974, Tổng biên tập Nguyễn Đình Ước chuẩn bị lên đường. Cùng đó, Ban biên tập quyết định cử một đoàn gồm 3 nhóm phóng viên đi vào sâu hơn, đến những vùng đất phóng viên của báo chưa hoặc ít được đặt chân tới.
Một ngày cuối năm, tòa soạn tiễn chân đoàn phóng viên, không tập trung đông người, không hoa, không liên hoan nhưng ấm áp, tin tưởng. Đoàn cùng xuất phát, đón Tết Nguyên đán trên Trường Sơn rồi chia 3 nhóm. Nhóm thứ nhất gồm: Tô Phương, Cao Tiến Lê, Trọng Lượng vào miền Đông Nam Bộ. Nhóm thứ hai gồm: Tô Vân, Vũ Đạt, Thiều Quang Biên vào miền Tây Nam Bộ. Nhóm thứ ba gồm: Trần Hữu Tòng, Hà Đình Cẩn, Anh Ngọc đi Nam Trung Bộ, Khu 6.
Nhiệm vụ trao chung cho cả 3 nhóm là phản ánh cuộc chiến đấu của quân dân ta tại các khu vực được cử đến, đồng thời nếu tình hình chiến trường có biến chuyển lớn thì sẵn sàng đến các mặt trận trọng điểm. Vậy là cuộc dàn trận báo chí đã chủ động chuẩn bị cho cả “phương án thời cơ lớn”.
Đầu năm 1975, sau khi tiễn đoàn lên đường, Tổng biên tập Nguyễn Đình Ước cùng các phóng viên Khánh Vân, Trần Ngọc lặng lẽ lên đường vào Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Đúng thời điểm này, trận Phước Long đã diễn ra thắng lợi. Tiếp đó, tháng 3 Chiến thắng Buôn Ma Thuột làm rúng động toàn bộ chiến trường. Từ Phước Long, Tổng biên tập quyết định đưa nhóm phóng viên đi cùng ngược ra Buôn Ma Thuột. Vừa đi, đoàn vừa viết và chuyển bài ra Hà Nội khởi đăng phóng sự dài kỳ “Từ Phước Long đến Thành cổ Quảng Trị”. Phóng viên Nguyễn Trần Thiết ở Tây Nguyên, phóng viên Nguyễn Thanh ở Quy Nhơn và Trung Trung Bộ cùng tham gia phóng sự này. Loạt phóng sự này cùng các tin, bài, ảnh từ khắp các mặt trận gửi về, các bình luận, dư luận thế giới… đã làm tờ báo có bức tranh toàn cảnh nóng hổi, phong phú về Mùa Xuân Đại thắng.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã lan rộng khắp miền Nam. Phó tổng biên tập Trần Công Mân trực ở tòa soạn đã cử tiếp các nhóm và phóng viên độc lập đến các mặt trận và các đơn vị lớn đang tiến quân thần tốc về phía Sài Gòn-TP Hồ Chí Minh.
Trưa 30-4-1975, cùng với 5 cánh đại quân, 5 mũi tiến công của phóng viên Báo QĐND đã hội quân tại các địa điểm lịch sử: Dinh Độc Lập, Tổng nha cảnh sát, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. Ngoài 3 mũi đã xuất quân trước đó, các phóng viên Nguyễn Mạnh Hùng đã đi cùng Quân đoàn 2, Phú Bằng, Phan Hiền, Vũ Ba tiến thẳng từ Hà Nội, nhóm Nguyễn Trần Thiết tiến từ miền Đông, qua “cơ sở cũ” là Trại Đa-vít trong căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, nơi các phóng viên Báo QĐND từng có mặt trong tư cách sĩ quan liên lạc của Phái đoàn quân sự bốn bên từ năm 1973.
Hợp quân, chưa gặp đủ mặt nhau, lập tức các nhóm phóng viên lại tỏa đi khắp miền Đông, miền Tây Nam Bộ, ra Côn Đảo, Phú Quốc, rồi sau đó ra Trường Sa.
Đại tá, nhà báo MẠNH HÙNG
 |
Đại tá Vũ Đạt tại công trường thi công Đường Hồ Chí Minh đoạn Xuân Sơn-Khe Gát, Quảng Bình ngày 5-4-2000. Ảnh: LÊ HẰNG.
|
Nhớ lại một thời gian khó
Tôi là một trong 9 phóng viên Báo QĐND được cử đi chiến trường trước Tết Ất Mão để “đón lõng” chiến thắng 30-4-1975. Trang bị của phóng viên ngày ấy thật đơn giản: 60m phim NP55 cùng 2 chiếc máy ảnh Pra-ti-ca-nô-va đều là của Cộng hòa Dân chủ Đức lúc bấy giờ. Học theo kinh nghiệm của các anh đi chiến trường trước đó, tôi mang thêm ít hóa chất và vài đôi pin con thỏ, khi cần có thể tráng phim và làm ảnh gửi về ngay theo đường giao liên.
Lên đường bằng xe Gát 69 vào ngày 2-1, sau hơn 20 ngày vượt Trường Sơn với những con đường bụi và bùn ngập nửa bánh xe, chúng tôi cũng vào đến tận miền Đông Nam Bộ mà không gặp trắc trở nào. Chỉ nghe ầm ì của tiếng pháo từ xa vọng lại và thỉnh thoảng có máy bay OV-10 vè vè trên đầu, nhưng chán rồi đi. Cảm động nhất là đoàn phóng viên Báo QĐND được gặp Tư lệnh Quân giải phóng Nguyễn Thị Định ở miền Tây Quảng Trị. Cái tin ấy được các anh Tòng, Lê, Phương,… viết và gửi bộ phận thông tin của binh trạm nên chỉ vài ngày sau đã được đăng ở trang nhất, còn ảnh thì chịu. 30 Tết Ất Mão, tôi ngồi bên đống than hồng mà anh em ở trạm giáp biên giới tỉnhMôn-đun-ki-ri đốt lúc ban chiều. Một đĩa lương khô, 10 cái kẹo và 10 điếu ru-bi xanh mà các chiến sĩ giao liên tặng. Đêm rừng khộp nóng và khô, cái đài của trạm lại giở chứng nên chẳng biết tin tức gì về Tết ở cả hai miền. Cũng may lúc chiều có mấy “đầu mối” của ta từ Bến Lức vào nên chúng tôi biết được tình hình các chiến trường đang cực kỳ sôi động, việc đánh lớn chỉ chờ thời khắc. Ruột nóng như lửa đốt, tôi giở bản đồ dùng compa đo để tính toán nơi tôi xuống nằm vùng đó là tỉnh Bến Tre còn tới 500km nữa. Mấy anh em ở thành phố ra rất chu đáo còn mang theo hai chậu hoa vàng, cành có thế rất đẹp. Phải có người giải thích tôi mới biết đó là cây mai vàng nổi tiếng ở Nam Bộ thường nở vào giáp Tết Âm lịch. Ở đó hai ngày chờ giao liên, tôi giở máy tác nghiệp, hai chậu mai vàng và các chiến sĩ ở trạm là đối tượng chính để tôi chụp hình và tối đến giúp tôi tráng phim làm ảnh. Những tấm ảnh in bằng ánh sáng đèn pin và những cuộn phim cắt ra từ hộp phim dài 60m được tráng bằng cả tâm huyết của người làm nghề nhưng cứ phải nằm ở dưới đáy ba lô vì không có giao liên ra Bắc.
Qua Mồng Hai Tết, tôi hành quân tiếp và xuống đến cánh đồng Chó Ngáp (Long An) đi với trung đoàn của anh Hai Quyên thì đụng với địch. Ngồi ở chỉ huy sở lúc nào tôi cũng muốn chồm lên chạy theo bộ đội nhưng anh Hai Quyên nhất quyết không nghe với lý lẽ: “Trên giao ông cho đơn vị tôi, lên đó không may bị đạn, tôi ăn nói với trên thế nào? Cứ ở đây, tối tôi cho cánh lính đến kể cho ông tha hồ mà nhiều tài liệu”. Hai ngày vượt đồng Chó Ngáp xuống đến lộ 4. Đêm đó tôi đi theo bộ đội của Sư đoàn 8 (Quân khu 8 lúc đó) qua xã Nhị Quý vượt lộ 4 sang Cai Lậy. Cách vượt lộ của bộ đội thật tài tình. Anh em trải những cuộn ni-lông chiều ngang cỡ 1m còn chiều dài khoảng 20m cho hết chiều ngang mặt lộ rồi lần lượt đi lên. “Làm như thế để xóa dấu vết”-anh trung đội trưởng tên Thường quê Hưng Yên nói với tôi. Đêm tôi cứ lấy máy ảnh ra để tốc độ B và chụp dù biết là vô vọng vì độ nhạy của phim chỉ có 15 đin. Hơn một tháng hoạt động ở vùng Long Định (Cai Lậy-Mỹ Tho), tôi còn tham gia nhiều đợt cắt lộ, theo du kích vào các khu tử địa. Bám dân và du kích đi gài mìn, tôi vẫn chụp ảnh, tráng phim, ghi chép kín các quyển sổ tay tôi có và những cuộn phim ấy lại được tôi cho vào thùng đạn đại liên để tránh mốc và chiếm tới 2/3 thể tích cái ba lô tôi có. Ngày nào tôi cũng được nghe tin các cánh quân tiến ở các hướng vào Sài Gòn, nhưng hoạt động ở dưới miền Tây thì không ác liệt và căng thẳng bằng các hướng khác. Mãi đến chiều 30-4, qua Đài Phát thanh giải phóng tôi biết đã giải phóng Sài Gòn. Ngay sáng hôm sau, tôi nhờ một du kích ra lộ 4 bắt xe đò đi lên Mỹ Tho và cái đêm ở Mỹ Tho ấy tôi đã học lái xe bằng chiếc Jeep lấy ngay ở cổng nhà vợ ba Nguyễn Văn Thiệu. Sáng hôm sau, đổ đầy xăng, tôi “giông” thẳng về Sài Gòn với tốc độ 20km/giờ và chụp hết 10 cuộn phim NP55. Về Sài Gòn tráng phim rồi gửi ra Hà Nội, chỉ hai ngày sau, phóng sự ảnh của tôi đã chững chạc ở trang nhất Báo QĐND. Là lái xe bất đắc dĩ nhưng tôi vẫn cùng nó và anh Tô Vân (phóng viên báo) đi Tân Sơn Nhất, Vũng Tàu, Bình Dương, Bến Tre,… và những ngày ấy việc gửi ảnh, tin, bài cũng dễ hơn.
Đến bây giờ đã nghỉ hưu nhưng tôi vẫn bồi hồi mỗi lần xem lại những kỷ niệm thời làm báo gian khổ của mình. Giá mà có một chiếc máy tính và chiếc máy ảnh kỹ thuật số như hôm nay. Nhưng biết đâu những người làm báo trẻ hôm nay lại muốn trải nghiệm thời làm báo thiếu thốn, gian khổ nhưng đầy nhiệt huyết những năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Những cuốn sổ ghi chép trong thời gian ấy đã giúp tôi nhiều trong 30 năm làm báo.
Đại tá, nhà báo VŨ ĐẠT
 |
Đại tá Trần Hồ Bắc. Ảnh: KIM DUNG.
|
Tác nghiệp trong ngày giải phóng
Tháng 4-1975, tin chiến thắng từ chiến trường miền Nam dồn dập bay về tòa soạn. Ban biên tập Báo QĐND đã cử những đoàn phóng viên lên đường về các địa phương, đơn vị để viết bài. Không còn cuộc chia tay trang trọng như trước, cứ có lệnh là bám đơn vị, bám cơ quan chỉ huy ra mặt trận. Hậu phương sôi nổi, chi viện sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng. Còn tôi, vẫn thực hiện nhiệm vụ trực biên tập, đón tình hình chiến sự, đón tin, bài của các đồng nghiệp từ chiến trường.
Ngay khi biết tin đã có những đội sửa chữa súng pháo của quân giới trở về từ chiến trường, tôi có mặt ngay tại Nhà máy 33, Cục Quân giới, Tổng cục Kỹ thuật. Thi đua với miền Nam, nhà máy hoàn thành 26% kế hoạch sản xuất cả năm, vượt 1% so với chỉ tiêu quy định. Trao đổi với tôi, cán bộ, kỹ sư, công nhân ở Nhà máy 33 cho biết: “Chính chiến thắng của miền Nam đã cổ vũ đội ngũ chúng tôi thực hiện nhiệm vụ”. Nhiều gương điển hình đã xuất hiện như đôi bạn công nhân Khúc Văn Thịnh, Phạm Văn Rạn (A7) đạt năng suất 500-600%, công nhân Hoàng Thị Tuyết cải tiến thao tác tiện, đưa năng suất lên 300%. Còn ở Phân xưởng A7, nhận lệnh là tổ chức ngay 4 đội sửa chữa cơ động lên đường ngay tới các đơn vị chiến đấu. Dù thời tiết mưa gió thất thường, phương tiện dụng cụ ở chiến trường không đầy đủ... cả 4 đội vẫn hoàn thành nhiệm vụ, đưa được nhiều súng pháo trở lại chiến đấu… Tất cả các hành động, con người cụ thể ấy tôi đều đưa vào bài viết “Khí thế mới, năng suất mới ở một nhà máy quân giới” kịp biểu dương đội ngũ công nhân trong Ngày Quốc tế Lao động, cũng là số Báo QĐND đặc biệt, mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Đại tá, nhà báo TRẦN HỒ BẮC