QĐND - Cảm hứng sử thi hào sảng đã tạo ra những nhân vật đậm chất lý tưởng. Nhân vật như một vầng hào quang trên bầu trời sử thi tỏa chiếu ánh sáng lý tưởng soi rọi, hướng bạn đọc đi về phía cái cao cả, cái anh hùng. Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu) có thể coi là một thành tựu của văn học Việt Nam hiện đại. Ngoài sự thành công xây dựng những điển hình anh hùng thời chống Mỹ (Kinh, Lữ), tiểu thuyết còn thể hiện được tinh thần của thời đại cả dân tộc một lòng đứng dậy đánh giặc: “Lớp cha trước, lớp con sau/ Đã thành đồng chí chung câu quân hành” (Tố Hữu).

Con người sử thi thời đó sống vì cái chung hơn vì cái riêng. Cái tôi càng như nhỏ bé đi trước cái ta cộng đồng. Nhân vật nói mà như “làm văn”: “Anh không cảm thấy cô đơn vì trên đầu anh là cả một trời sao và dưới cánh anh là những trời sao của đất nước”. Ngày nay, bạn đọc trẻ tuổi không thể tưởng tượng đó là lời của một nhân vật chàng trai (Quỳnh) nói với người yêu, nhưng đấy là nét chung của ngôn ngữ thời đó. Thời của sử thi thì có ngôn ngữ sử thi. Không chỉ có trong Vùng trời của Hữu Mai mà dễ dàng tìm thấy ở bất kỳ tiểu thuyết nào thời đó, dĩ nhiên là phải cùng thể tài.

Con người sử thi là con người trong vắt, con người của lý tưởng, của niềm tin, rất khó tìm thấy ở họ có chút gì riêng tư cho cá nhân mình. Thế cho nên ta hiểu tiểu thuyết Chiến sĩ của Nguyễn Khải không chỉ là một người mà là tập thể những người lính can đảm, thông minh, giàu lòng yêu nước… Tình yêu là lĩnh vực riêng tư nhất, nhưng ở tiểu thuyết giai đoạn này, tình yêu trai gái hòa vào tình yêu đất nước, tình yêu nhỏ nằm trong tình yêu lớn. Thật dễ hiểu các cặp đôi như Lữ-Hiền (Dấu chân người lính); Quỳnh-Hảo (Vùng trời); Thiêm-Mẫn (Mẫn và tôi); Ngạn-Quyên (Hòn Đất); Tâm-Thành (Dưới đám mây màu cánh vạc)... đều là những nhân vật của sử thi, từ suy nghĩ đến “yêu đương” cũng rất “sử thi”. Chính vì thế mà trong bức thư của người vợ, dù đã có tuổi (vợ chính ủy Kinh) gửi cho chồng cũng có thể tìm thấy ở bất kỳ lá thư nào của những người vợ trẻ: “...ở nhà mọi người đều bình yên và đang tích cực sản xuất để góp phần cùng tiền tuyến chống Mỹ, cứu nước” (Dấu chân người lính). Những người vợ ấy đã xác định rõ không chỉ gửi thư cho chồng mà còn cho cả đồng chí của chồng. Những người chồng cũng tương tự, lá thư không chỉ của riêng mình mà còn là của chung đồng đội. Tất cả, những người nơi hậu phương, nơi tiền tuyến, tiền tuyến-hậu phương đều coi nhau như trong một nhà, tất cả vì mục tiêu đuổi giặc. Cũng rất lô-gích, khi đồng chí coi nhau như anh em trong nhà, thì anh em cha con ruột thịt lại coi nhau như đồng chí. Thậm chí, khi yêu nhau người ta cũng coi nhau như đồng chí. Một câu thơ của Tố Hữu đã nói rất đúng cái tình thời đó là tình đồng chí: “Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí”. Rất dễ hiểu khi hai cha con Kinh-Lữ gặp nhau ngoài mặt trận thì người bố không nói bằng giọng người bố mà nói với giọng cấp trên (chính ủy): “Chốc nữa anh hãy báo cáo với tôi công việc anh đã làm từ ngày đi bộ đội. Quyết tâm thư khi đi chiến trường anh viết ra sao?” (Dấu chân người lính). Do vậy mà trước cái chết, nhân vật chị Sứ cũng chỉ nghĩ về Đảng, về cách mạng: “Bữa nay, có lẽ mình chết. Nhưng mình chỉ thấy tiếc chớ không ân hận mắc cỡ gì cả... Tới phút này đối với Đảng, mình vẫn y nguyên, như chị Minh Khai, như Võ Thị Sáu... nên từ phút này trở đi, mình cũng phải giữ được như vậy” (Hòn Đất). Con người sử thi là con người “nén tình riêng vì nghĩa lớn”, thế cho nên nhân vật Khuê (Dấu chân người lính) khi biết tin “nhà bị bom, chết một đứa em lên năm, bà mẹ bị thương nặng, nhà bay mất không còn một mảnh ván” cũng coi như không có chuyện gì xảy ra, vì nếu nói sẽ ảnh hưởng đến tinh thần anh em trong đại đội. Cái chết của con người sử thi là cái chết “gieo mầm” (tên một truyện ngắn của Nguyễn Thiều Nam), cái chết của sự cao cả: “Người chiến sĩ điện thanh ấy trước khi hy sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng: Trên nền trời cao, rất cao và xanh, lá cờ đỏ mỗi lúc một thắm tươi đang bay, lá cờ mỗi lúc càng tiến dần đến trước mặt. Rồi anh nhắm mắt...” (Dấu chân người lính).

     Tương ứng với cảm hứng sử thi hào sảng và con người sử thi lý tưởng là một không gian sử thi hoành tráng. Đó là kiểu không gian mang tính xung đột căng thẳng: Xung đột giữa dân làng Kônghoa với bọn giặc Pháp (Đất nước đứng lên); giữa nhân dân thôn Hòn Đất với tụi Mỹ Diệm (Hòn Đất); giữa bộ đội và du kích Làng Cá với quân Mỹ ngụy (Mẫn và tôi); giữa quân dân xã Hòa Thanh với cha con tên ác ôn Hứa Xâng, Hứa Min với bè lũ tay sai (Đất Quảng); giữa Đoàn không quân Sao Vàng với bọn không lực “Huê Kỳ” (Vùng trời)... Thường là xung đột không cân sức, bên ta thì ít người, vũ khí thô sơ; bên giặc quá đông cùng vũ khí hiện đại. Đó là xung đột chính nghĩa-phi nghĩa mà kết cục chính nghĩa giành được thắng lợi. Không gian sử thi được biểu hiện cụ thể qua hình tượng con đường, hình tượng trận đánh. Đó là con “đường vui”, là “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”... cũng là trận tuyến “đẹp”: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Con người thời đó tìm niềm vui, nguồn vui ở trong những trận đánh giặc: “Đánh Tây sướng bằng tiên chớ cực gì” (Người mẹ cầm súng); “Bỗng dưng tôi bắt gặp một bông hoa vui đang nở ngập ngừng trong tôi, tỏa hương... Tôi nhận ra rồi. Nó là niềm vui được đánh giặc” (Mẫn và tôi). Đấy không chỉ là tâm trạng của nhân vật chị Út Tịch hay của Thiêm trong tiểu thuyết của Phan Tứ, mà còn là tâm trạng chung của hàng vạn, hàng triệu con người ở thời đó.

Đúng vậy, đặc trưng của không gian sử thi là không gian con đường đông đúc, chật chội, con đường “ta đi đánh giặc”: “Dọc con đường giao liên bấy giờ, khu rừng hai bên có những quãng dòng thác người tự nhiên cứ quẩn lại, phình to ra, đông đúc và ồn ào như dòng nước lũ chảy qua một cái xoáy lớn... Không ai có tài nào mà phân biệt hoặc đếm được có bao nhiêu đơn vị, cũng không thể biết đây là đường rừng hay quảng trường, là rừng cây hay là rừng người và rừng súng đạn” (Dấu chân người lính). Trong không gian này lại mang một đặc điểm là tất cả như hòa lẫn vào nhau, con người lẫn vào thiên nhiên, người lẫn vào thác, người lẫn vào rừng, rừng lẫn vào súng đạn... Không chỉ con người đi đánh giặc mà cả không gian đi đánh giặc. Điều này càng tăng cường chất sử thi cho tiểu thuyết, đẩy hình tượng tiểu thuyết luôn vượt lên trên cái bình thường để trở thành cái phi thường.

Con người yêu nước, con người có văn hóa trước hết là con người không được quên đi quá khứ của dân tộc mình. Một quá khứ cực kỳ cao cả, đẹp đẽ, hào hùng như thời cả nước lên đường ấy càng phải được làm sống lại trong mỗi con tim người Việt hôm nay. Tiểu thuyết của chúng ta đã góp phần làm tốt nhiệm vụ cao cả đó./.

 

PGS, TS Nguyễn Thanh Tú

 

-----------

 

Kỳ 3: Dấu hiệu đổi mới