“... Với sự hạn chế hiểu biết về chèo, họ đã cổ vũ cho các vở “kịch nói cắm hát chèo” thay cho việc khẳng định sự thành công của các vở diễn kế thừa và phát triển chèo truyền thống, giữ được bản sắc chèo-bản sắc dân tộc”, Tiến sĩ (TS) Trần Đình Ngôn đã thẳng thắn chỉ ra trong Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo trong xã hội đương đại” vừa diễn ra ngày đầu tháng 4, tại Hà Nội.
Chưa quan tâm đúng mức để quảng bá chèo
TS, Trần Đình Ngôn kể ví dụ, sau khi thống nhất đất nước, từ năm 1976 một số đoàn chèo ở các tỉnh phía Bắc cùng với Nhà hát Chèo Việt Nam đã tổ chức những đợt lưu diễn ở TP Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Tây Nguyên. Trong các đợt biểu diễn này, nhiều cuộc nói chuyện có minh họa về chèo đã được tổ chức, có cả các cuộc giới thiệu về chèo trên Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam. Nhờ vậy, bên cạnh khán giả vốn là người các tỉnh phía Bắc, đã có nhiều khán giả là người Nam Bộ và đồng bào Tây Nguyên. Đó là kết quả của những cuộc giới thiệu, quảng bá về chèo cùng với sức truyền cảm của các vở diễn, chương trình trích đoạn chèo truyền thống. Trong nhiều năm, TP Hồ Chí Minh và Tây Nguyên là địa bàn hoạt động của nhiều đoàn chèo vào dịp cuối năm, nhằm có được nguồn chi phúc lợi cho nghệ sĩ, diễn viên của đơn vị trong các dịp đón Tết mừng xuân.
 |
Cảnh trong vở chèo “Hồng Hà nữ sĩ”-tái hiện chân dung nữ sĩ Đoàn Thị Điểm của Nhà hát Chèo Việt Nam mới dàn dựng. |
Thế nhưng, nhìn lại hoạt động của các nhà hát chèo, đoàn chèo hoạt động chuyên nghiệp những năm gần đây cho thấy, việc tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá cho nghệ thuật chèo chưa được quan tâm đúng mức. Rất ít đoàn có những cuộc biểu diễn miễn phí nhằm tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá cho nghệ thuật chèo. Nhu cầu doanh thu để bảo đảm kinh phí hoạt động và cải thiện đời sống cho các nghệ sĩ, diễn viên đã hạn chế, thậm chí triệt tiêu việc tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá để phổ cập rộng rãi cho công chúng khán giả hiểu biết những điều cơ bản, tối thiểu để có thể cảm tình với nghệ thuật chèo. Như thế làm sao mong khán giả yêu chèo, đến với chèo được?
Hiến kế tìm khán giả cho chèo
Dưới góc độ của một nhà giáo, TS Nguyễn Thị Thanh Vân (Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội) cho rằng, đứng trước sự bùng nổ của công nghệ 4.0, nghệ thuật chèo buộc phải vận động và biến đổi để thích ứng với khán giả, với hiện thực đổi mới của đất nước. Chèo lúc này không những đổi mới cả về mặt nội dung và hình thức, mà còn phải đổi mới cả về mặt tiếp cận khán giả, kéo khán giả đến với chèo. TS Nguyễn Thị Thanh Vân hiến kế: "Trên cơ sở kế thừa truyền thống, chèo tiến hành lựa chọn đề tài, thể tài phù hợp với ngôn ngữ của chèo hiện đại, hướng tới nhu cầu thưởng thức văn hóa của các bộ phận khán giả đương đại. Những tác phẩm chèo này vừa tô đậm văn hóa truyền thống và hiện thực xã hội, vừa phải thể hiện được phong cách của từng vùng, miền và các đơn vị nghệ thuật biểu diễn chèo. Bên cạnh đó, dựa trên nguyên tắc tự sự của chèo cổ, sáng tác những kịch bản chèo có đề tài phản ánh được những vấn đề lịch sử và đổi mới của đất nước. Về mặt hình thức, những vở chèo này mang yếu tố tự sự-kịch tính, xung đột và phải sử dụng các làn điệu của chèo cổ".
Hiệu quả từ chính sách quan tâm, đãi ngộ của lãnh đạo địa phương được nghệ sĩ Ninh Việt Triều (Nhà hát Chèo Ninh Bình) nêu ra trong hội thảo, cũng được xem là nội dung thiết thực trong bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo hiện nay. Theo nghệ sĩ Việt Triều, từ năm 2005 đến nay, UBND tỉnh Ninh Bình đã phê duyệt kế hoạch phát triển đoàn nghệ thuật ở Ninh Bình, trong đó có chèo. Đáng lưu ý trong đó là chính sách cấp thêm 1 suất lương hỗ trợ tương đương với lương chính cho cán bộ, công nhân viên, nghệ sĩ, diễn viên nhà hát. Chính sách nhân văn này đã động viên, khích lệ rất lớn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, từ đó nghệ sĩ yên tâm cống hiến đam mê, sáng tạo nghệ thuật. Trung bình mỗi năm tỉnh giao chỉ tiêu cho nhà hát phải đạt 120 đêm diễn/năm (trong đó có phục vụ chính trị, bà con vùng sâu, vùng xa, khán giả trong, ngoài tỉnh và khách quốc tế, khách du lịch). Tuy nhiên, nhà hát luôn vượt kế hoạch chỉ tiêu tỉnh giao, diễn từ 160-180 buổi diễn/năm (từ năm 2016 đến nay), các suất diễn ưu tiên phục vụ nhân dân các huyện vùng sâu, vùng xa, trường học...
Theo NSND Thanh Ngoan, Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam, điều cần thiết làm ngay là: “Chèo cần phải quảng bá sản phẩm của mình, thu hút khách du lịch, khách nước ngoài. Tiến hành kết nối với các nhà hát, các đơn vị truyền thông, du lịch trong và ngoài nước để giới thiệu, tổ chức biểu diễn các vở diễn chèo truyền thống, vừa bảo tồn và phát huy di sản chèo, vừa quảng bá được sản phẩm ra các nước trên thế giới. Tại các di tích, danh lam thắng cảnh, khu du lịch nổi tiếng, nên có lịch biểu diễn cụ thể và kết hợp với các công ty lữ hành trong nước và nước ngoài để tuyên truyền, quảng bá phát trực tiếp, gián tiếp trên các nền tảng, trang Website mạng xã hội... để phục vụ khán giả”.
Đổi mới, cách tân chèo là điều cần thiết trong bối cảnh xã hội đương đại, nhưng như lời của TS Trần Đình Ngôn, phải dựa trên mối quan hệ thống nhất hài hòa giữa nhà quản lý-nghệ sĩ-khán giả. Cải biên, cải tiến, phát triển, cách tân chèo như thế nào để khi đưa đề tài hiện đại vào, chèo vẫn giữ được cốt cách và những nét đẹp truyền thống độc đáo vốn có của nó, đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các nghệ sĩ, diễn viên và ê kíp sáng tạo. Mối quan hệ này càng gắn bó, khăng khít bao nhiêu thì càng thúc đẩy nghệ thuật chèo phát triển bấy nhiêu. Như thế mới gắn với hệ giá trị văn hóa, chấn hưng, phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021.
Bài và ảnh: VƯƠNG HÀ