QĐND - Sáng nay, tôi sẽ mặc bộ quân phục mới như buổi sáng ngày 30 tháng 4 của 40 năm trước, khi tất cả những người lính thuộc 5 cánh đại quân đều được lệnh mặc quần áo mới bước vào trận đánh cuối cùng tiến về giải phóng Sài Gòn.
Sáng nay, trời Biên Hòa-TP Hồ Chí Minh liệu có mưa không, cơn mưa bất chợt đầu mùa như 40 năm trước. Cơn mưa ấy ập xuống đoàn người, đoàn xe đang vừa đánh vừa tiến quân qua cầu Biên Hòa, cầu Rạch Chiếc, cầu Sài Gòn. Nước mưa làm dịu đi cơn khát, cơn thèm nước của chúng tôi sau bốn ngày liền tiến công và chiếm giữ căn cứ Nước Trong-cái tên thì hay mà không tìm đâu ra nước uống chứ đừng nói đến tắm giặt. Nước mưa làm bụi đất đỏ từ rừng cao su loang lổ gương mặt chiến sĩ. Nước mưa rửa sạch bớt những cây cầu, những đoạn đường còn lỗ chỗ vết đen của đạn, vết đỏ của máu… Cơn mưa đầu mùa cũng mở ra một ngày mới, trời sáng đẹp. Những người lính sau khi hoàn thành nhiệm vụ của mình tại dinh Độc Lập kéo nhau đi rửa mặt, rửa tay. Có mấy anh em nhảy cả xuống bể nước nhỏ trước cửa dinh. Áo mới, gương mặt mới của người chiến sĩ giải phóng.
 |
Đoàn xe của Quân giải phóng diễu hành trên đường phố Sài Gòn trong niềm vui mừng của người dân.
|
Buổi sáng 30 tháng 4 ấy như vừa mới hôm qua. Vậy mà đã 40 năm biết bao đổi thay, biết bao lần những tấm áo mới khoác lên thân mình đất nước, lên cuộc sống mỗi con người. Cũng đã 40 năm chúng tôi, những người lính cũ, những bạn bè thi thoảng mới tìm lại được nhau. Xuân này, nhóm phóng viên đầu tiên có mặt tại dinh Độc Lập ngày ấy mới lần đầu gặp mặt khá đầy đủ cùng một số chiến sĩ xe tăng năm ấy. May mắn thay, sau bao năm tìm kiếm, anh Trần Mai Hưởng cùng chúng tôi mới gặp được người trong một bức ảnh do anh Hưởng chụp. Đó là một chiến sĩ nhô mình trên tháp pháo xe tăng tiến vào cổng dinh Độc Lập. Anh tên là Nguyễn Bá Tứ, nguyên pháo thủ số 2 trên chiếc xe tăng 846. Gặp nhau thật mừng nhưng cũng lại có nỗi buồn sâu nặng. Anh Tứ bị nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin. Đứa con gái đầu của anh sinh ra không thể là một người bình thường, không thể tự lo mọi việc cá nhân dù đã lớn. Hai đứa con trai sinh sau đỡ hơn, đi học, đi làm được nhưng cũng mắc bệnh, ốm yếu. Riêng người chiến sĩ xe tăng sau này về lái xe khách, ngày ngày đón đưa người dân Hà Nội. Tưởng cuộc đời còn cho anh sức khỏe để cùng vợ chăm nuôi mấy đứa con tàn tật song mới đây, tự nhiên một căn bệnh lạ bộc phát. Anh phải cắt thanh quản, không nói được. Gặp lại đồng đội, gặp chúng tôi, muốn trao đổi điều gì anh đều phải viết ra giấy. Hôm ấy anh vui lắm, anh luôn cười tươi, muốn nói, muốn hỏi nhiều điều và mọi người ai cũng quan tâm đến anh. Chỉ trong thoáng chốc, anh đã “đối thoại” với mọi người hết gần chục trang giấy. Niềm vui, sự sôi nổi của anh làm chúng tôi vui lây, yên tâm phần nào nhưng không ai không kìm giữ trong mình những âu lo, suy nghĩ. 40 năm, di chứng chiến tranh vẫn tác oai tác quái trên thân mình anh cùng số phận cả gia đình, và hàng chục vạn gia đình khác nữa...
***
Còn biết bao điều, bao câu chuyện, bao nỗi niềm phải tìm hiểu, phải nói về 30 năm kháng chiến hào hùng trong vô vàn máu và nước mắt. Nhưng cũng còn không biết bao điều mừng vui cùng trăn trở trong 40 năm hòa bình, thống nhất, dựng xây. Cứ mỗi Ngày 30 tháng 4 đến, những chiến binh già cùng chúng tôi và cả những lớp người trẻ nữa sinh ra trong hòa bình lại tự hỏi hay cật vấn nhau rằng, chúng ta đã sống xứng đáng với 30 năm kháng chiến?
Hay được trở lại nhiều địa danh chiến tranh, tôi thường ngẫm ngợi về những ký ức và thời sự đã và đang diễn ra trên nhiều mảnh đất quê hương. Sông Lô, Điện Biên Phủ, Hàm Rồng, Bến Thủy, Vĩnh Linh, Quảng Trị… hôm nay thế nào. Đông Hà đã thành một thành phố. Khe Sanh đang từng bước trở thành thành phố cửa khẩu bao gồm cả Lao Bảo. Những cái tên Chu Lai, Dung Quất, Plei-cu, Buôn Ma Thuột, Thủ Dầu Một, Đồng Dù, Trà Nóc… xưa toàn lính Mỹ, sân bay, bến cảng, dây thép gai, xe tăng, trại pháo Mỹ bây giờ là những khu đô thị, khu du lịch, khu công nghiệp, khu kinh tế biển và cửa khẩu… Những ấp chiến lược, khu dồn, những vành đai trắng từ lâu đã là những đồng lúa, ngô, đậu, lạc, những trang trại, cánh rừng cà phê, cao su, hồ tiêu, cam, xoài, dứa, mận…
Tôi muốn kể cùng anh em rằng, hòa bình đã cho chúng ta những cái nhìn, những cách nghĩ khác rất nhiều về non sông đất nước. Dải núi và cát bỏng Sơn Trà-Tiên Sa kia là nơi tàu chiến Pháp, rồi Mỹ đổ bộ và đóng quân suốt từ giữa thế kỷ 19, sau ngày giải phóng theo năm tháng, đã bóc hết các đường băng sân bay, những kho vũ khí, vật dụng chiến tranh và trại lính để trở thành khu du lịch nghỉ dưỡng mênh mông bên bãi biển. Những bãi sú vẹt, những trảng, dãy đồi cát Quảng Bình, Phan Rang, Phan Thiết, Bà Rịa… trong con mắt thời bình trở thành những khu du lịch nổi tiếng, những cánh đồng thanh long, nho, chuối, những cánh đồng điện gió… Tôi kể với các anh về cây cầu Biên Hòa, nơi quân ta tấn công các ụ đề kháng bố trí hình dích dắc của địch bây giờ có Khu du lịch Suối Tiên một bên, khu Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh một bên. Tôi kể về cây cầu Rạch Chiếc, nơi diễn ra trận đánh ác liệt suốt 3 ngày đêm bộ đội đặc công giành giật để xe tăng, xe bộ binh ta tiến thẳng vào Sài Gòn, bây giờ đã và đang là một điểm nút giao thông lớn chưa từng có. Tại đây, đã có cầu mới, đường mới, sẽ có thêm đường tàu điện xuyên thành phố rồi khu liên hợp thể thao. Và những xóm nghèo bên cây cầu Thị Nghè, bắc qua con sông đen tù đọng, hôi hám ngày ấy đã biến mất, thay bằng dòng kênh mới Nhiêu Lộc-Thị Nghè, thành hai con đường-dãy phố bên sông mang tên Hoàng Sa, Trường Sa…
40 năm-những người còn sống sau chiến tranh và lớp người sinh sau hoàn toàn có thể tự hào đã biến ước mơ của những người ngã xuống năm xưa từng ngày, từng ngày thành hiện thực, biến đất nước hoang tàn trở lại xanh tươi. Cùng với sự thay da đổi thịt trên thân mình Tổ quốc, cùng với những công trình mọc lên là sự trưởng thành của lớp lớp những con người giàu ý thức làm chủ, giàu lòng yêu thương. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng là những năm tháng dài tôi gắn bó với TP Hồ Chí Minh và các vùng đất phương Nam. Thành phố là nơi tôi trở về sau mỗi chuyến đi đến các vùng biên giới Tây Nam. Biên giới mỗi ngày mỗi thêm nóng bỏng vì giặc Pôn Pốt xâm lấn, tàn sát người dân. Không thể quên những nỗi đau ngày ấy, nỗi đau miền biên giới kèm nỗi buồn lo về đời sống khó khăn ở ngay thành phố sung túc nhất phương Nam. Nhân tài vật lực, tất cả phải dồn ra phía trước ngăn chặn kẻ địch. Đã vậy, chúng ta lại còn phải gánh chịu những tai họa khó khăn do việc Mỹ bao vây, cấm vận. Ai có thể nghĩ rằng, có lúc người dân miền đất gạo trắng nước trong phải ăn bo bo, phải chia nhau từng túi xà phòng bột, từng lạng mì chính… Một lần, được anh em đánh cá trên biển cho một con cá thu, tôi đem về biếu ông bác họ đang là công chức lưu dung trong bộ máy chính quyền mới. Mới năm trước nhà ông còn tương đối khá giả, đâu thiếu cái ăn, nhưng lúc này nhận quà ông rưng rưng, tủi tủi. Ít lâu sau tuổi cao, ông nghỉ việc, theo những người di tản sang Mỹ đoàn tụ cùng con cái đã trưởng thành. Ra đi, ông cùng bao người mang theo những tâm trạng nặng nề… Thế mà chỉ hơn chục năm sau, ông đã giục con cháu cùng ông về thăm lại quê hương.
Đất nước đổi mới, hòa bình thực sự trở lại trên cả hai đầu đất nước, cuộc sống làm ăn, xây dựng ở TP Hồ Chí Minh bừng lên. Tôi để ý, cứ mỗi năm số người rời nước ra đi cùng con cháu lại trở về Việt Nam nhiều hơn, đầu tư về quê hương nhiều hơn. Tư thế của một đất nước cứ ngày mỗi đàng hoàng hơn, bởi cơ sở hạ tầng vật chất bảo đảm cho công cuộc xây dựng, phát triển. Nhưng quan trọng hơn, bởi sự ổn định chung, bởi sự an tâm sinh sống, làm ăn của mỗi người dân. Sau ngày Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, tôi được đi cùng đoàn nhà báo Việt Nam thăm Mỹ theo lời mời của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ. Chúng tôi được đi lại tự do nhiều nơi, được các giáo sư, các nhà báo đồng nghiệp Mỹ và các doanh nhân tiếp đón, đối thoại tử tế, thẳng thắn. Một nước Mỹ khác đã dần hiện lên trong mắt tôi. Những đợt thanh niên, sinh viên tình nguyện Mỹ bắt đầu đến Việt Nam. Gặp một số công chức, sĩ quan Sài Gòn cũ đang làm ăn khá phát đạt trên đất Mỹ, chúng tôi nói thẳng: “Các ông được đến hai lần ăn theo cuộc chiến của Mỹ, trước đây ở Sài Gòn, bây giờ là ngay giữa lòng nước Mỹ”. Họ cười, công nhận và rủ chúng tôi cùng tham gia đầu tư về Việt Nam. Tất nhiên vì công việc chuyên môn, không ai trong chúng tôi có thể cộng tác. Làn sóng đầu tư về Việt Nam từ những Việt kiều, trong đó có cả những người còn nặng nề chuyện cũ, đã hiển hiện và ngày càng phát triển. Các doanh nghiệp, doanh nhân và số lưu học sinh, sinh viên Việt Nam sang Mỹ kết nối làm ăn, học tập trong đó có cả những đứa cháu tôi cũng mỗi năm mỗi nhiều hơn.
Chính thành công trong đổi mới toàn diện đất nước đã mở hướng, mở lối cho tất cả. Chính đất nước ngày mỗi tươi đẹp của chúng ta đã và đang làm dịu dần những vết thương chiến tranh nơi mỗi con người. Và do vậy, 40 năm-thời gian cũng đã trở thành người đồng hành, hỗ trợ cho chúng ta nhìn rõ hơn về những đau thương, mất mát, về những dâng hiến của lớp người đi trước. Với thời gian những cái kết có hậu dần đến. Người đồng nghiệp lớp trước của tôi, nhà báo Lê Đình Dư hy sinh năm 1968 trên chiến trường Quảng Trị đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Danh hiệu ấy cũng đã được trao cho Đại đội 4 xe tăng Lữ đoàn 203 và Đại đội trưởng Bùi Quang Thận, người chỉ huy mưu trí, dũng cảm, người cắm cờ trên nóc dinh Độc Lập. Và nữa, bạn tôi, họa sĩ Lê Duy Ứng, người bị thương nặng trong trận đánh vào căn cứ Nước Trong ngày 26-4 mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh cũng đã được phong tặng danh hiệu cao quý ấy bởi hành động anh hùng năm xưa và bởi sự phấn đấu để tiếp tục sáng tạo, cống hiến 40 năm qua. Tôi cũng luôn nhớ và chia vui với Nguyễn Khắc Nguyệt, người lái chiếc xe tăng số hiệu 380 cùng đại đội Bùi Quang Thận. Trưa 30 tháng 4 ở trước dinh Độc Lập, anh không ra khỏi xe để mừng chiến thắng vì quần áo tả tơi sau bao ngày hành quân chiến đấu. Tôi đã biết anh kiên trì nghiên cứu học tập để từ người lính lái xe tăng trở thành một cán bộ tin cậy của binh chủng. Đặc biệt, anh đã cầm bút viết về đồng đội rất thành công với hàng chục cuốn hồi ký, tiểu thuyết. Lòng tự trọng của người lính là thế. Tôi cũng muốn kể về phóng viên trẻ hôm nay, họ đã cùng chúng tôi đi tìm gặp những chiến sĩ năm xưa. Họ đã rủ nhau góp tiền, góp quà đến thăm, trợ giúp người pháo thủ bị phơi nhiễm chất độc da cam…
30 năm đất nước mới trọn niềm vui độc lập, thống nhất, sum họp. 40 năm niềm vui càng thêm trọn vẹn, dâng trào vì núi sông toàn vẹn, vì đất nước hòa bình, phát triển.
Tùy bút của MẠNH HÙNG