Chúng tôi có cuộc trao đổi với PGS, TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa-Giáo dục của Quốc hội; GS, TS Trần Nho Thìn, giảng viên Đại học Quốc gia Hà Nội; TS Nhị Lê, nguyên Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản để làm rõ nhận thức mới về những đóng góp đa chiều của văn hóa trong đời sống đương đại.
Làm giàu từ văn hóa
Phóng viên (PV): Công nghiệp văn hóa (CNVH) hiện là động lực của nền kinh tế ở nhiều quốc gia. Ví dụ như Hàn Quốc, CNVH đóng góp gần 9% trong tổng số GDP 1.500 tỷ USD; ở Vương quốc Anh, thu về 26 tỷ bảng, cung cấp hơn 2 triệu việc làm... Những con số biết nói kể trên có thể chứng minh rằng, nhiều quốc gia đã thực sự làm giàu từ văn hóa. Ông có thể chia sẻ về điều này?
PGS, TS Bùi Hoài Sơn: Năm 1993, kinh phí sản xuất bộ phim “Công viên kỷ Jura” (Mỹ) là 63 triệu USD nhưng đã mang lại doanh thu khổng lồ hơn 1,029 tỷ USD, tương đương lợi nhuận 500.000 chiếc xe ô tô của hãng Hyundai (Hàn Quốc). Chính phủ Hàn Quốc “giật mình”, quyết tâm phát triển mạnh mẽ CNVH bằng việc thực thi một loạt chính sách đồng bộ, triển khai khẩn trương nên đã tạo ra “làn sóng Hàn Quốc” (Hallyu) với đại diện là phim ảnh, thời trang, ca nhạc... Trong gần hai năm qua, khi đại dịch Covid-19 hoành hành, hoạt động văn hóa ngưng trệ, nhưng nhờ nền tảng giải trí trực tuyến, nền CNVH Hàn Quốc vẫn có thể hái ra tiền như hiện tượng phim truyền hình “Trò chơi con mực” (mới ra mắt phần 1 với 9 tập) ước tính thu về gần 900 triệu USD.
 |
PGS, TS Bùi Hoài Sơn. |
Khi sản phẩm văn hóa được sản xuất chứa đựng 4 yếu tố: Tính sáng tạo, vốn văn hóa, công nghệ và kỹ năng kinh doanh, thì sản phẩm đó có tính công nghiệp mà hoàn toàn có thể mang lại doanh thu cao.
GS, TS Trần Nho Thìn: Quan niệm từ xa xưa ở nước ta xem các sản phẩm văn hóa là để “di dưỡng tinh thần”, để tuyên truyền, giáo dục mà ít chú ý đến tính kinh tế, làm giàu từ sản phẩm văn hóa. Ở các nước phát triển, họ quan niệm sản phẩm văn hóa là hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường. Bỏ ra một đồng là phải tính toán thu về mười đồng, phải tính đến hiệu quả kinh tế, chứ không chỉ làm... cho vui. Tôi có dịp tham quan kinh đô điện ảnh Hollywood (Mỹ). Riêng tiền mua vé tham quan phim trường khổng lồ của hãng Warner Brothers là 45USD, chưa kể sản phẩm ăn theo các bộ phim.
 |
GS, TS Trần Nho Thìn |
Ở nước ta, những người làm văn hóa đã bước đầu có tư duy kinh doanh văn hóa. Ngay cả các loại hình nghệ thuật truyền thống như múa rối, tuồng, bài chòi... đã tìm hướng đi đúng, phù hợp là phục vụ du lịch. Nhưng theo quan sát của tôi, nhiều cơ quan, đơn vị trong lĩnh vực văn hóa thờ ơ về vấn đề này. Chưa loại bỏ ngay sự thụ động, trông chờ bao cấp, không có những đổi mới, sáng tạo thì lĩnh vực văn hóa mãi bị coi là lĩnh vực “tiêu tiền” mà thôi.
PV: Chiến lược phát triển các ngành CNVH (năm 2016) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đặt mục tiêu đến năm 2020, CNVH đóng góp khoảng 3% GDP, đến năm 2030 là 7%. Cơ sở nào để xác định con số này và liệu có thể hoàn thành được mục tiêu không, thưa ông?
PGS, TS Bùi Hoài Sơn: Ở Việt Nam, Chính phủ xác định nền CNVH Việt Nam có 12 ngành chủ chốt: Quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công, mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; truyền hình và phát thanh; du lịch văn hóa. Con số ước tính đóng góp khoảng 3% GDP vào năm 2020 được tính toán từ nhiều yếu tố, đặc biệt có tham khảo hiện trạng CNVH ở các nước trong khu vực. Năm 2019, Báo cáo quốc gia thực hiện Công ước về Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa của UNESCO đã xác nhận, các ngành CNVH đóng góp 3,61% GDP, cao hơn so với dự tính trong chiến lược. Điều đó chứng minh đường hướng của chiến lược là đúng đắn, đặc biệt là việc xác định các ngành CNVH chủ chốt. Hứa hẹn tương lai đóng góp 7% GDP của các ngành CNVH vào năm 2030 là khả thi, quyết định CNVH trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Văn hóa tạo nên “sức mạnh mềm”, nâng cao vị thế quốc gia
PV: Có ý kiến cho rằng chạy đua văn hóa trên toàn cầu hiện nay còn sôi động, quan trọng không kém "chạy đua vũ trang". Ông có nghĩ nhận xét này quá lời hay không?
PGS, TS Bùi Hoài Sơn: Tôi nhớ đến một ý kiến cho rằng: Văn hóa là trận chiến cuối cùng và cũng là yếu tố quyết định quốc gia giành chiến thắng trong thế kỷ 21. Không cần bạn phải sinh sống ở nước ngoài, nếu bạn xem phim, nghe nhạc và nhất là học ngôn ngữ nước nào thì dẫn đến khả năng tư duy, ứng xử, lối sống tương tự như người nước đó. Và khi bạn say mê sản phẩm văn hóa giải trí, chắc chắn bạn sẽ có thiện cảm với đất nước họ, sẵn sàng chi tiền đi du lịch, tin tưởng các mặt hàng xuất khẩu của họ. Đó là quá trình “xâm lăng văn hóa” mà nhiều cường quốc chủ trương sử dụng để tạo ra “sức mạnh mềm” quyến rũ, nâng cao vị thế quốc gia. Văn hóa đi trước, mở đường cho chính trị, kinh tế là như vậy. Tôi không dẫn ra ví dụ bởi quá nhiều và có thể thấy những ví dụ sinh động từ chính gia đình mình, nhất là con em của chúng ta đang là “fan cuồng” ca sĩ, diễn viên nước ngoài mà chúng ta không để ý.
GS, TS Trần Nho Thìn: Khi sản phẩm văn hóa nghệ thuật hư cấu có giá trị, có sức lan tỏa lớn thì đời sống sẽ bắt chước theo. Ví dụ như trào lưu cosplay, ăn mặc, hóa trang để hóa thân thành các nhân vật siêu anh hùng, mỹ nam, mỹ nữ trong điện ảnh, truyện tranh; thậm chí còn phẫu thuật thẩm mỹ cho giống thần tượng. Một vài người bắt chước không sao nhưng nếu rất nhiều người, đặc biệt là giới trẻ bị “tiêm nhiễm” văn hóa ngoại lai thì sao? Nếu chúng ta không tỉnh táo thì “xâm lăng văn hóa” khiến giới trẻ lãng quên bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc, trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm với cộng đồng, có lối sống vị kỷ... Đây là điều nguy hại không chỉ cho văn hóa đất nước mà còn ở lĩnh vực khác về lâu dài.
Văn hóa phải ở vị trí trung tâm, có vai trò điều tiết xã hội
PV: Đảng ta nhấn mạnh: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Ông có thể phân tích thêm về giá trị chiều sâu của quan điểm này?
 |
TS Nhị Lê |
TS Nhị Lê: Lịch sử phát triển của nhân loại trải muôn thăng trầm, còn mất xác tín: Văn hóa là cái còn lại, sau khi tất cả đã mất đi.
Mấy nghìn năm qua, nước ta đã bao lần bị thế lực ngoại bang đô hộ, áp bức nhưng đất nước và dân tộc trường tồn là bởi không bị đồng hóa, trước hết và sau cùng là nhờ cái “linh đơn” văn hóa Việt Nam. Rõ ràng, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam, là mục tiêu, là động lực phát triển của lịch sử Việt Nam. Văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là “tấm căn cước” của dân tộc trong hội nhập quốc tế đầy thách thức “mất, còn” hiện nay. Mặt khác, văn hóa còn mang trong nó tính vượt trước hay tính tiên phong so với tất cả các lĩnh vực kinh tế hay xã hội. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Càng rõ ràng, văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà đồng thời là một động lực phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là một mục tiêu bao trùm và xuyên suốt sự phát triển của đất nước trên con đường phát triển xã hội chủ nghĩa (XHCN) một cách mạnh mẽ và bền vững.
 |
Phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” (2015) góp phần phát triển du lịch tỉnh Phú Yên. Ảnh do đoàn làm phim cung cấp |
PV: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang nỗ lực phấn đấu xây dựng đất nước hùng cường, hướng đến những dấu mốc quan trọng của đất nước trong những thập niên tới. Vậy văn hóa sẽ có vai trò thế nào để hiện thực hóa mục tiêu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN, thưa ông?
TS Nhị Lê: Ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc không chỉ được đánh giá bằng tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm trong nước mà còn bằng các chỉ số: Giáo dục tốt, sức khỏe và dinh dưỡng ở mức cao, môi trường trong sạch, có cuộc sống văn hóa cao... Đi trên con đường XHCN, càng rõ ràng, văn hóa là một thành tố không thể bị xem nhẹ, mà nó là một bộ phận trong chỉnh thể hữu cơ: Chính trị-kinh tế-xã hội-văn hóa.
Đất nước hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải có một hệ giá trị tương ứng với nó như một chiến lược tổng thể về phát triển chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội-ngoại giao... Chẳng hạn, văn hóa và kinh tế là hai mặt thống nhất, xuyên thấm trong nhau, khó tách bạch. Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời văn hóa, nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo sẽ bị suy yếu rất nhiều.
Hơn nữa, thực tiễn ngày càng cho thấy rất rõ, văn hóa cần coi mình là một nguồn gốc cổ xúy trực tiếp cho phát triển; và ngược lại, phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội mềm dẻo, âm thầm như mạch nguồn nhưng có sức mạnh to lớn và bền chắc. Do đó, hiển nhiên là chúng ta cần xây dựng và phát triển một chiến lược về văn hóa của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước mắt với tầm nhìn tới năm 2030 và tới năm 2045. Nói một cách khái quát, đó là văn hóa của sự phát triển mạnh mẽ và bền vững, với khát vọng Việt Nam XHCN độc lập và hùng cường.
“Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới” (trích Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, trang 145). |
PV: Trân trọng cảm ơn các chuyên gia!
(còn nữa)
HOÀNG HOÀNG - VƯƠNG HÀ - MINH NHÃ - THU HÀ (thực hiện)