Trước đó, tôi đã đọc bài báo nổi tiếng của anh viết tại Mặt trận Điện Biên Phủ, đó là bài “Đêm nay Bác không ngủ”, ra đời trước bài thơ cùng tên của Minh Huệ. Trước đó, anh Phú Bằng làm Báo QĐND khi báo được thành lập. Anh là phóng viên đời đầu của báo, lăn lộn với hầu hết các chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp.
Miền Bắc được hòa bình, anh là một trong những nhà báo đầu tiên vượt Trường Sơn, hiện diện tại các mặt trận ở Đông Nam Bộ, vùng ven Sài Gòn, Củ Chi và theo Bộ đội Đặc công vào Sài Gòn năm 1968. Trận này, anh Phú Bằng bị thương, anh em đi kiểm tra, phát hiện anh còn nằm ở trận địa, khiêng ra.
 |
Nhà báo Phạm Phú Bằng (ngồi giữa) thăm địa điểm Tòa soạn tiền phương Báo Quân đội nhân dân tại Mường Phăng, TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (tháng 2-2014). Ảnh: HUYỀN PHƯƠNG
|
Tôi có hai lần đi làm báo với anh Phú Bằng. Lần đầu là ở biên giới Tây Ninh-Campuchia. Bấy giờ đêm đêm vùng biên giới này thường bị bọn lính Pol Pot quấy phá. Nếu ta sơ sẩy mất cảnh giác, bọn diệt chủng sẽ lẻn sang tàn sát bà con ta. Bởi thế đêm ở đây, bộ đội không ngủ, không nghỉ, luôn phải di chuyển. Ở chỗ bộ đội ta phục kích, tiếng súng bỗng rộ lên. Đồng chí đại đội phó nói với tôi và anh Bằng: "Các anh lùi lại công sự phía sau, để bộ đội triển khai ngăn chặn địch".
Tôi chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy trực tiếp, lùi lại vài chục bước chân, nơi có sẵn công sự. Ở đó, nhìn lên phía trước, tôi chỉ thấy lờ mờ bóng anh Bằng, anh không lùi lại mà đứng nép mình vào bụi chuối. Đến lúc tôi lên chỗ bụi chuối để dễ quan sát về phía bên kia, thì anh đã biến mất. Mươi phút sau tôi mới biết, anh đã chạy theo tiểu đội chiến sĩ xung kích truy đuổi tốp Pol Pot liều lĩnh thâm nhập vào khu vườn bỏ trống của dân.
Đến gần sáng, anh trở về khiêng theo một người lính hy sinh và áp giải hai tên lính Pol Pot vừa bắt được. Lần ấy, anh Bằng viết một bài báo ngắn về đêm biên giới Tây Ninh im lìm, thao thức, với các chiến sĩ hy sinh thầm lặng, cả hơi thở và tiếng nói rì rầm trong đêm chiến tranh, phía sau là hòa bình, vô cùng cảm động.
Lần khác, tôi và anh cùng đi mặt trận Cao Bằng, nhưng mỗi người một hướng, anh cùng nhà văn Chu Lai theo Tiểu đoàn Đặc công 45 nổi tiếng, còn tôi theo bộ đội Quân khu 1. Đến lúc gặp lại nhau ở Ngân Sơn, thấy anh ngồi một mình, nghe anh kể, chưa thấy đơn vị nào như Đặc công 45. Hành quân họ không cần giúp nhau, vì anh nào cũng khỏe. Chiến đấu họ cũng độc lập tác chiến, anh nào cũng đeo đầy người thủ pháo và cắp khẩu AK báng gấp, đánh một mũi. Họ thoắt ẩn thoắt hiện, vừa ở thung sâu đã mắc võng ngủ trên đỉnh núi, đêm một đơn vị lặng lẽ lọt vào thị xã Cao Bằng địch đang lấn chiếm, đánh một chặp rồi mất tăm.
Sáng quân báo quân khu thông báo, bốn trăm lính địch trong thị xã bị diệt trong đêm. Làm báo với một đơn vị đặc công như thế, anh Bằng bảo, chỉ có thể chạy và chạy. Anh đã chạy theo họ và nhiều đơn vị khác trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, để cuối cùng công bố một ký sự dài kỳ tuyệt vời trên Báo QĐND.
Với anh Phú Bằng, tôi nhiều năm là phóng viên của Phòng biên tập Văn hóa - Thể thao do anh phụ trách, đồng thời là Bí thư Chi bộ. Tôi yêu quý anh, quý mến cả gia đình anh, đặc biệt là với cụ Phạm Phú Tiết, cha anh. Cụ Tiết là nhà soạn tuồng, từng là Tổng đốc, sau đi theo cách mạng, được Bác Hồ phong cấp Đại tá. Thời tôi ở Khu tập thể số 8 phố Lý Nam Đế (Hoàn Kiếm, Hà Nội), gần nhà, đôi khi vẫn nghe thấy cụ hát và ra bộ tuồng trong gian nhà hẹp.
Sau hòa bình, cụ vào TP Hồ Chí Minh sống với con thứ. Tôi đến thăm, chuyển gói quà nhỏ anh Bằng gửi biếu cụ. Lúc chia tay, cụ không hỏi thăm sức khỏe cháu con ở Hà Nội, chỉ hỏi tôi có một câu: "Mua gạo ở Hà Nội bây giờ còn phải xếp hàng không?". Tôi nói: "Vẫn xếp hàng, cụ ạ".
Cụ đứng lặng, rồi nói: "Bà con ta còn khổ quá!". Cả đời soạn tuồng của cụ là đề cao trung quân ái quốc, về già, vẫn thế, vẫn một lòng son sắt với dân trên nghĩa hiệp trung quân ái quốc. Có chi tiết mà tôi chứng kiến, ấy là tài sản của cụ Phạm Phú Tiết để lại cho con cháu, chỉ là chiếc va li mây, trong đó có mảnh giấy Bác Hồ mời cơm và bộ sách cụ viết bằng chữ Nho, thời cụ làm Tổng đốc, đó là cuốn “Chép trong vườn mía”, chừng 500 trang. Tôi không biết cuốn “Chép trong vườn mía” của cụ đã được dịch ra chưa, và bây giờ anh Bằng mất rồi thì bản thảo ở đâu?
Anh Bằng có đức tính của cha, ấy là cần mẫn một đời với nghề, thận trọng về nghề, sống chết với nghề và yêu người. Hình ảnh mà tôi nhớ mãi, ấy là anh Bằng loay hoay đi mua những cái radio bé tí, mua từng tấm lụa xanh, xếp đầy một ba lô. Lâu lâu lại một mình lặng lẽ lên vùng đồng bào ở biên giới phía Bắc để tặng quà cho trẻ em, phụ nữ và những gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Việc làm từ thiện của anh không theo phong trào nào, không có điểm dừng, tự thân, lặng lẽ kéo dài nhiều năm, cho đến khi anh còn đủ sức lên đường. Con người vô cùng thân yêu và kính trọng của tôi vừa khép lại cuộc hành trình, như một lẽ tự nhiên, nhưng thiếu vắng vì chưa có thay thế, ít ra là lúc này, bây giờ. Người lo cho người không cần danh đâu phải nhiều...
Nhà văn HÀ ĐÌNH CẨN
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.