Ngày nay, ca dao Việt Nam đã được tập hợp và xuất bản rất phong phú, tiêu biểu là các cuốn "Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam" và "Tục ngữ, ca dao người Việt". Có được thành tựu này cần nhắc đến người đầu tiên nhận ra vẻ đẹp của ca dao, rồi tập hợp lại, dịch ra văn Hán để so sánh với Kinh Thi của Trung Quốc, đó là Hoàng giáp Trần Danh Án.

Trần Danh Án hiệu là Liễu Am và Tản Ông, quê Bảo Triện-Gia Bình-Bắc Ninh. Ông sinh năm 1755 trong gia đình có truyền thống khoa bảng: ông nội Trần Phụ Dực đỗ tiến sĩ năm 1683, làm quan Tư huấn Quốc Tử Giám, tham gia soạn "Đại Việt sử ký tục biên"; cha ông là Trần Danh Lâm đỗ Tiến sĩ cùng khoa với bác ruột Trần Danh Ninh năm 1731, làm quan đồng triều cùng tới chức Thượng thư.

Cuốn sách Tục ngũ, ca dao Việt Nam (ảnh: Internet).

Trần Danh Án thông minh học giỏi, đỗ đầu thi hương, thi Hội đỗ Hoàng Giáp, đứng tên thứ ba khoa Đinh Mùi 1787, khoa thi cuối cùng của triều Lê. Bấy giờ vua Lê Chiêu Thống đã đoạn tuyệt với nhà chúa, định dựa vào tướng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh để củng cố quyền lực "nhất thống thiên hạ". Quân Tây Sơn cử Vũ Văn Nhậm kéo quân ra Bắc lần thứ hai hỏi tội Chỉnh. Chỉnh đưa xa giá vua Lê sang Kinh Bắc lánh nạn. Mặc dù Chỉnh đã bị tiêu diệt nhưng vua Lê vẫn dựa vào các cựu thần tính kế nhất thống thiên hạ. Trần Danh Án là một trụ cột lúc ấy.

Sau một năm tòng vong, sức cùng lực kiệt, vua Lê tính kế dựa vào ngoại bang, cử Trần Danh Án và Lê Duy Đản sang Thanh cầu viện. Nhờ có 20 vạn quân Thanh, vua Lê giành lại kinh thành, phong Trần Danh Án là Tĩnh nạn công thần-Định Nhạc hầu. Mùa xuân 1789 vua Quang Trung đại phá quân Thanh, Lê Chiêu Thống lại chạy theo quân Thanh định tính kế “phục quốc” tiếp. Trần Danh Án ở lại lẩn trốn trong dân gian. Vua Quang Trung cử Ngô Thì Nhậm nhiều lần đến gặp mời ông ra làm việc nhưng ông kiên quyết cự tuyệt, tỏ rõ một lòng trung với nhà Lê qua câu thơ:

“Người sau bên mộ giơ tay trỏ

Tiến sĩ đời Lê cũ, họ Trần”.

Trong thời gian lánh nạn này, Trần Danh Án đã gặp Nguyễn Gia Thiều, một cựu thần nhà Lê cũng kiên quyết cự tuyệt làm quan với Tây Sơn. Hai vị cựu công thần cùng chí khí lại là hai nhà thơ lớn rất ý hợp tâm đầu, đã gặp nhau là bàn chuyện thơ phú. Một lần, Nguyễn Gia Thiều đọc cho bạn nghe bài thơ “Khóc Thị Bằng” mới làm, có câu:

“Đập mảnh gương ra tìm lấy bóng

Khép manh áo lại để riêng hơi”.

Trần Danh Án thán phục thơ quốc âm cũng bóng bẩy, sâu sắc, bèn diễn giải ra Hán văn để so sánh:

“Phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh

Trùng phong, khâm tử hộ dư hương”.

Mọi người có mặt đều khen ông diễn dịch hay, nhưng vẫn chưa thể vượt được ý tứ câu thơ quốc âm.

Nhân câu chuyện vui vẻ, có người đọc ra một câu nói cửa miệng của dân gian đề nghị hai nhà thơ dịch ra thể thơ Đường là:

Muôn nghìn chớ lấy Kẻ La

Cái tương thì thối, cái cà thì thâm”.

Cả hai nhà thơ đều kêu khó. Mãi sau Trần Danh Án dựa theo Kinh Thi mà dịch ra như sau:

“Vạn thiên tư niên

Vật thử bỉ La

Ngôn xú kỳ tương

Ngôn hắc kỳ cà”.

Mọi người ngỡ ngàng, câu nói cửa miệng trong dân gian mà dịch sang Hán văn lại hay thế, chẳng kém gì Kinh Thi của người Trung Quốc. Từ đó, Trần Danh Án tiếp tục sưu tập ca dao và dịch sang Hán văn được nhiều câu nữa. Công việc này được ghi chép cẩn thận. Việc đang tiến hành thì xảy ra sự kiện vua Lê qua đời ở Trung Quốc. Hoàng thái tử nhỏ tuổi cũng ốm chết. Thế là sự nghiệp "phục quốc" của nhà Lê tan tành, trọng thần Trần Danh Án đau buồn nhịn ăn chết theo. Đó là năm 1794.

Công việc sưu tập ca dao và dịch sang Hán văn về sau lại được Ngô Đình Thái (hiệu là Hạo Phu) tiếp tục. Sau đó là cử nhân Trần Doãn Giác, cháu gọi Trần Danh Án bằng ông chú tiếp tục hoàn thành, đặt tên sách là “Nam Phong giải trào” và dâng lên vua Tự Đức. Ngay từ thời đó, “Đại Nam nhất thống chí” đã đánh giá: “Những câu ca dao nơi xóm làng có quan hệ với phong hóa có thể gần với các câu của Kinh Thi”.

Như vậy, việc sưu tập ca dao của hoàng giáp Trần Danh Án và những người kế tục đều xuất phát từ lòng tự tôn, tự hào văn hóa dân tộc. Với Trần Danh Án, trong khi quá nặng lòng trung quân với nhà Lê mà dẫn đến hạn chế, ảo tưởng về sự cứu giúp ngai vàng triều đại cũ thì tư tưởng tự tôn văn hóa dân tộc lúc ấy thật đáng ghi nhận.

PHẠM THUẬN THÀNH