Đầu năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, các đơn vị của Bộ tư lệnh Trường Sơn chuyển sang phía Đông để xây dựng đường cơ bản. Bên Tây Trường Sơn chỉ còn Sư đoàn Công binh 472 và Sư đoàn Bộ binh 968. Lúc này, ta đã tiến công Paksong, giải phóng hoàn toàn cao nguyên Bolaven (Lào). Trên Đường 9, ta tiến công Mường Pha Lan; trên Đường 23, ta đánh bại cuộc tiến công của địch nhằm tái chiếm thị xã Salavan (Lào). Sở chỉ huy Sư đoàn 472 đóng ở Bắc Đường 9, cách Mường Phìn hơn chục ki-lô-mét về phía Đông Bắc. Khi đó, tôi là Hạ sĩ, Tổ trưởng Tổ thống kê, Phòng Tham mưu, Sư đoàn 472.

Chiều 18-2-1973, toàn Sư đoàn báo động sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng đánh bại âm mưu của địch có thể dùng lực lượng luồn lách đường bộ hoặc đổ bộ đường không lấn chiếm vùng giải phóng của bạn để cắm cờ trước khi ký Hiệp định Vientiane. Phòng Tham mưu được cấp súng AK và đủ cơ số đạn, lựu đạn, có nhiệm vụ canh gác, bảo vệ lá cờ của Pathet Lào trên cao điểm, cách sở chỉ huy Sư đoàn gần 1km. Cấp ủy, chỉ huy Phòng Tham mưu đã lên kế hoạch, phương án xử lý các tình huống có thể xảy ra, như: Một toán thám báo, biệt kích, hoặc một tổ quân phỉ luồn lách vào, hoặc một nhóm đổ bộ đường không xuống cắm cờ; đồng thời quán triệt nhiệm vụ, xây dựng quyết tâm cho cán bộ, chiến sĩ cơ quan Phòng Tham mưu hoàn thành tốt nhiệm vụ, bảo vệ bằng được vùng giải phóng của bạn theo khu vực được phân công.

Thiếu tướng Hoàng Kiền (giữa) trong lần trở lại tỉnh Salavan (Lào), tháng 7-2022. Ảnh: HOÀNG TÚ 

Tổ thống kê chúng tôi có 4 người, thay nhau mỗi người một ca, mỗi ca 3 giờ đồng hồ liền, bảo vệ lá cờ vào ban đêm (từ 18 giờ hôm trước đến 6 giờ hôm sau); nếu có quân địch đến thì tổ chức chiến đấu và báo cáo thủ trưởng Phòng cho lực lượng ra phối hợp chiến đấu, bảo vệ cờ của bạn, thu hồi cờ của địch. Đường lên điểm gác vừa dốc vừa khó đi, phải mất gần nửa tiếng để cơ động từ đơn vị lên vị trí gác. Tuy vất vả nhưng cứ đúng giờ thay phiên là người sau có mặt (còn không đến kịp là coi như có sự cố trên đường).

Lúc này, Hiệp định Paris đã được ký kết, Mỹ ngừng ném bom trên toàn bộ chiến trường Đông Dương, xe ô tô của bộ đội Trường Sơn chạy ban ngày, đêm nghỉ; không gian núi rừng rất bình yên, khác với những ngày diễn ra chiến sự. Giờ là cao điểm mùa khô, bầu trời ban đêm có ánh trăng sáng phủ ngập núi rừng bao la. Cảnh vật rất tĩnh lặng, chỉ có tiếng chim kêu, vượn hú và tiếng côn trùng. Đứng một mình giữa núi rừng mênh mông, ôm cây súng vào lòng, nhìn xung quanh không chớp mắt, cảnh đêm trên đất bạn bất chợt gợi lòng tôi nhớ đến những tháng ngày yên bình sống trong vòng tay của người thân, gia đình ở quê hương.

Trong ca gác, có lần tôi thấy một vật đen bay sạt qua trước mặt. Tôi thoáng giật mình, giương súng lên chăm chú quan sát hồi lâu thì phát hiện ra tiếng động do con chồn bay phát ra. Sau đó, tôi tiếp tục giữ vững tinh thần cảnh giác, nghe ngóng động tĩnh để xem bọn địch có mò đến không... Phiên gác 3 tiếng liền giữa núi rừng đêm khuya tĩnh mịch thật dài và hồi hộp, chỉ mong sớm đến ngày Hiệp định Vientiane được ký kết, lập lại hòa bình trên đất nước triệu voi.

Ngày 21-2-1973, Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo Hiệp định Vientiane được ký kết, chúng tôi thật mừng vì đã hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ an toàn vùng giải phóng của bạn. Ngày ấy, với niềm cảm xúc dâng trào, tôi đã làm bài thơ "Đứng gác":

            Đêm khuya đứng gác một mình

      Ánh sao trên mũ lung linh sao trời

            Tay ôm cây súng chẳng rời

      Long lanh ánh mắt sáng ngời niềm tin

            Trăng soi rừng núi im lìm

      "Bắt cô trói cột" bổng chìm ngân nga

            Giữa vùng giải phóng bao la

      Lá cờ Pathet, Chăm Pa vững vàng

            Nước Lào giải phóng vẻ vang

      Hòa bình xây dựng sang trang tự hào

            Tình đoàn kết đẹp biết bao

      Trường Sơn huyền thoại thêm cao nghĩa tình.

Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân HOÀNG KIỀN, nguyên Tư lệnh Binh chủng Công binh

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Tư liệu Hồ sơ xem các tin, bài liên quan.