Tháng 10-1976, Sư đoàn 325 của chúng tôi đang đứng chân trên khu vực Đường 9, tiến hành xây dựng doanh trại, ổn định, sắp xếp lại tổ chức, biên chế, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu thì nhận được mệnh lệnh khẩn trương cơ động lực lượng sang giúp Lào. Địa bàn đảm nhiệm của Sư đoàn thuộc 2 tỉnh Salavan và Savannakhet thuộc Nam Lào. Lúc đó, tôi là Đại đội trưởng Đại đội 9, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 18, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2. Trước khi hành quân sang giúp nước bạn Lào, Chính ủy Sư đoàn Lê Văn Dương giao nhiệm vụ cho chúng tôi nhấn mạnh: “Phải hết lòng, hết sức giúp chính quyền và nhân dân các bộ tộc Lào ổn định cuộc sống”.

 

Đại tá Đinh Quang Thìn, nguyên Đại đội trưởng Đại đội 9, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 18, Sư đoàn 325.

 

Đầu tháng 11-1976, Trung đoàn 101 và Trung đoàn 18 cùng cơ quan Sư đoàn 325, dưới sự chỉ huy của Đại tá Lê Văn Dương, Chính ủy Sư đoàn và Đại tá Nguyễn Đức Huy, Phó sư đoàn trưởng lần lượt vượt cửa khẩu Lao Bảo theo trục Đường 9 sang tập kết ở Mường Pha Lan, Dong Hen và triển khai đi các hướng.

Những ngày chiến đấu, công tác ở Lào, thường xuyên phải cơ động di chuyển điểm đứng chân. Đi đến đâu, công tác dân vận được đặt lên hàng đầu, tổ chức cho quân y khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí; cử cán bộ đến từng nhà thăm hỏi nhân dân. Bà con nhân dân thường sử dụng nước trực tiếp dưới suối nên dễ bị bệnh về tiêu hóa. Việc canh tác theo tự nhiên nên năng xuất không cao... Để giúp bạn, tôi chỉ huy bộ đội đào hàng chục giếng nước ngay sát mép suối. Nước từ suối được làm sạch bằng cách cho chảy thẩm thấu qua các bao cát sạch để lọc bỏ các tạp chất. Vậy là bộ đội và nhân dân đều có nước sạch để dùng trong sinh hoạt. Bộ đội còn hướng dẫn dân bản đắp bờ bao làm ruộng lúa nước nên năng xuất được nâng lên nhiều.

Với sự giúp đỡ của các đơn vị bộ đội Việt Nam, dân bản đã có đủ thóc gạo quanh năm. Để làm tốt công tác dân vận, Sư đoàn, Trung đoàn đã mở nhiều lớp học tiếng Lào, khuyến khích bộ đội tự học thêm tiếng Lào. Thấy bộ đội Việt Nam nói thạo tiếng Lào, nhân dân càng thêm tin yêu bộ đội Việt Nam, tin tưởng vào chính quyền sở tại.

Nhờ có bộ đội Việt Nam cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu và xây dựng lực lượng, tổ chức chính quyền, lực lượng vũ trang của bạn dần vững mạnh và làm chủ được địa bàn, cũng như phối hợp có hiệu quả trong việc truy quét bọn phản động. Dân bản hiểu, tin và tích cực tham gia phong trào tố giác, dẫn đường cho bộ đội Việt Nam truy quét bọn phản động. Trước ân nghĩa của bộ đội Việt Nam, chính quyền và nhân dân ở tỉnh Savannakhet đề nghị giúp đỡ bộ đội xây dựng chỗ ở. Theo đề nghị đó, Ban chỉ huy Đại đội 9 cho bộ đội làm mẫu một gian nhà bằng tre vách đất, mái lá để đại diện các bản đến tham quan.

Sau khi xem xong, các bản tự nhận sẽ phụ trách cung cấp nguyên liệu giúp bộ đội xây dựng lán trại. Đến thời gian ấn định, trên các nẻo đường, xe trâu, xe bò nườm nượp chở tre, nứa, lá đến vị trí tập kết. Bộ đội Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào cùng chung tay xây dựng doanh trại trong bầu không khí vui tươi, thân mật, rộn ràng như ngày hội. Chỉ trong thời gian ngắn, Đại đội 9 đã có doanh trại với những căn nhà bằng tre đẹp đẽ khang trang. Việc làm này đã giúp cho bộ đội có đủ sức khỏe, thời gian tập trung truy quét địch dài ngày. Trận đánh có hiệu quả nhất của Đại đội 9 là trận tập kích đánh địch ở bản SaKhun, huyện Kengkok, đã loại khỏi vòng chiến hơn 20 tên địch, thu 1 bản đồ quân sự Quân khu Hạ Lào.

Đại tá Đinh Quang Thìn (bên trái) kể về kỷ niệm chiến đấu bên nước bạn Lào với đồng đội. Ảnh: NGUYỄN VIỆT  

Qua thời gian làm nhiệm vụ quốc tế của Trung đoàn 18 trên đất bạn Lào, Trung đoàn 18 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được cấp trên giao. Trục Đường số 13 được bảo vệ an toàn, thông suốt, tình hình an ninh chính trị, chính quyền các cấp ngày càng được củng cố, nhân dân tin tưởng vào chính quyền, tình đoàn kết hữu nghị keo sơn gắn bó giữa Trung đoàn 18 Quân tình nguyện Việt Nam với quân và dân Lào được củng cố vững chắc.

Ấn tượng những ngày công tác, chiến đấu ở đất nước Triệu Voi, những kỷ niệm về tình quân dân còn đọng mãi trong tâm trí tôi, là những mùa trăng rằm, ánh trăng rọi sáng bên đống lửa bập bùng cháy; là rộn ràng tiếng trống cùng điệu múa lăm vông, màu xanh áo lính quyện với màu áo thôn nữ tinh khôi cùng men thơm của rượu cần, cùng lễ buộc chỉ cổ tay Bunpimay, lễ hội Hotnam (Té nước) bên dòng sông Se Banghiang đuổi nhau té nước với nghĩa tình quân - dân đầy nhung nhớ… Tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt thủy chung được nhân lên mãi, càng thấm đậm hai chữ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Lào còn mãi trong ký ức của những cựu Quân tình nguyện Việt Nam. Củng cố, phát triển tinh thần đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào, luôn là tâm niệm của những người lính cựu chiến binh Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào.

Đại tá ĐINH QUANG THÌN, nguyên Đại đội trưởng Đại đội 9, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 18, Sư đoàn 325