Tác nghiệp buồm trong trạng thái tàu nghiêng.

Tàu buồm nhưng không phải lúc nào cũng có thể chạy bằng buồm. Trước khi đi ở chế độ buồm, theo thuyền trưởng Nguyễn Trọng Hiếu, giai đoạn chuẩn bị hết sức quan trọng. Cần phải kiểm tra khu vực biển tàu dự kiến sử dụng buồm, nghiên cứu thời tiết, chế độ gió, mật độ tàu thuyền qua lại.

Tiếp đến, trên tuyến đi xác định cần lập kế hoạch sử dụng hướng đi như thế nào cho phù hợp với chế độ gió. Và sau đó là cần dự kiến số lượng buồm sử dụng trên từng hướng để đạt hiệu suất gió tác động vào buồm tốt nhất. Cuối cùng là thao tác buồm theo khẩu lệnh chỉ huy-người bắt buộc phải có khả năng quan sát và ra mệnh lệnh điều chỉnh buồm sao cho phù hợp với hướng đón gió để tàu đi đúng hướng, đạt đủ tốc độ.

Đại úy Đoàn Tử Nguyên Ngọc, thuyền phó cho biết, thao tác buồm là cả một quy trình khép kín và có những nguyên tắc riêng nên đòi hỏi phải có quá trình huấn luyện chuyên môn chặt chẽ. 

Chứng kiến buổi huấn luyện thả buồm và cũng là sử dụng buồm để hành trình của Tàu buồm 286-Lê Quý Đôn, những gì diễn ra quả là vượt sức tưởng tượng của chúng tôi. Ai cũng có chung cảm giác buổi huấn luyện thao tác buồm gần giống với không khí rộn ràng của các “lễ hội” chèo thuyền truyền thống. Khi kéo dây buồm, trên mặt boong rộn vang các khẩu lệnh của chỉ huy và tiếng hô đồng thanh hưởng ứng tràn đầy khí thế và nhiệt huyết của mấy chục thủy thủ, học viên đang căng tràn sức trẻ. Sức mạnh như được tăng lên gấp bội cùng những tiếng hô đồng thanh “haul away left – right, left – right (Kéo – 2- 3, 2-3)”.

Khi từng cánh buồm lần lượt được hạ xuống cũng là lúc con tàu nghiêng lắc mạnh hơn. Con tàu bồng bềnh lướt đi trong trạng thái nghiêng có lúc 19 độ bởi sóng lớn, gió mạnh cấp 5-6, có lúc giật cấp 6-7 bởi trận mưa dông bất ngờ do ảnh hưởng của đợt áp thấp từ Philippines. Các phóng viên tác nghiệp đứng còn không vững, chân bám chặt xuống mặt boong trơn trượt vì nước mưa, tìm điểm tựa chắc chắn nhất có thể để kịp quay và chụp được những khuôn hình đẹp các thủy thủ và học viên thao tác buồm trong điều kiện sóng gió đầy thử thách.

Trời mưa khiến sàn tàu trơn trượt gây khó khăn và nguy hiểm cho các thủy thủ và học viên. 

Sở chỉ huy trên tàu và kíp tàu đã phán đoán thời điểm giao mùa thời tiết trên biển sẽ khó tránh khỏi diễn biến phức tạp khi tàu tiến sát khu vực Biển Đông, nên đã yêu cầu chủ động và sẵn sàng áp dụng tối đa các biện pháp bảo đảm an toàn. Các thủy thủ trên tàu đã khéo léo tận dụng những dây buồm cỡ nhỏ để tự đan những tấm lưới chắc chắn để mắc bên phía mạn tàu nghiêng nhằm bảo đảm an toàn trong các chuyến hành trình trên biển. 

Chỉ huy tàu hội ý đưa ra các quyết định chính xác trên suốt hải trình. 

Sau chưa đầy 5 phút khi tiếng chuông báo động đi buồm cùng khẩu lệnh “All hands on deck, All hands on sail manoeuvre” của thuyền trưởng vang lên từ ca bin, các tổ nhanh chóng vào vị trí với đồ bảo hộ, áo phao chỉnh tề. Tổ trèo buồm tác nghiệp đầu tiên. Các thủy thủ thoăn thoắt leo lên các cột buồm có độ cao 43 mét trên những chiếc thang dây mỏng manh để tháo dây buồm. Người tác nghiệp buồm cao nhất ở độ cao chừng 42m trong điều kiện sóng lớn, gió tạt, tàu nghiêng lắc mạnh. Vắt vẻo trên các xà ngang buồm, hai chân chỉ đứng trên sợi dây mỏng manh trong khi hai tay thao thác, các thủy thủ trèo buồm dù có thiết bị bảo hộ vẫn phải vượt qua nỗi sợ hãi độ cao và phải giữ thăng bằng thật tốt.

Thời tiết mát mẻ bởi mưa dông, gió thổi mạnh nhưng trên khuôn mặt và lưng áo những thủy thủ trèo buồm vẫn ướt đẫm mồ hôi, đủ thấy họ đã phải dùng sức lực nhiều ra sao. Đó cũng là lý do vì sao, các thủy thủ trèo buồm không chỉ cần vững tâm lý mà còn phải đáp ứng các đòi hỏi về thể lực, cân nặng… Phong trào luyện tập thể lực, đặc biệt là cơ tay nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ đặc thù trên tàu buồm, bởi thế rất sôi nổi và thu hút đông đảo các thủy thủ, học viên tham gia.

Trên cột buồm, mỗi thủy thủ thao tác một vị trí trên các xà ngang có độ cao thấp khác nhau. Tưởng chừng họ làm việc độc lập nhưng kỳ thực cần có sự phối hợp ăn ý, nhịp nhàng nhằm bảo đảm an toàn cho chính mình và đồng đội. “Lúc ấy chúng tôi phải tập trung tối đa vào thao tác, tránh bị phân tán tư tưởng. Bởi chỉ cần một chút lơ đãng có thể ảnh hưởng tới kết quả công việc, thậm chí gây nguy hiểm cho đồng đội”, Đại úy Đoàn Tử Nguyên Ngọc cho biết. Bằng kinh nghiệm của mình, Đại úy Đoàn Tử Nguyên Ngọc ví dụ một tình huống giả định trong trường hợp một người đang đứng ở dây làm buồm mà thả tay, một người từ trong buồm bước ra mà không có sự thông báo, không quan sát sẽ có nguy cơ gặp rủi ro rất cao. Vì vậy, thao tác buồm đòi hỏi tinh thần đồng đội, sự tập trung cao độ và phối hợp hiệp đồng chặt chẽ.

 Các thủy thủ nhanh chóng leo trên vị trí tác nghiệp trên các xà buồm.
Làm việc trên cột buồm có độ cao 43 mét trong điều kiện tàu rung lắc và đi nghiêng là cả một thử thách lớn.
 Tác nghiệp trên xà buồm.

“Khi đi buồm, quân số tàu được huy động tối đa, không phân biệt vị trí nào, chỉ còn một vài vị trí trực chỉ huy trên ca bin, trực máy. Khi đi buồm phải bảo đảm trực 24/24, sẵn sàng cho mọi tình huống thời tiết không thuận lợi phải huy động lực lượng lên điều chỉnh buồm bất cứ lúc nào, thậm chí là thu buồm nhằm bảo đảm an toàn. Vì vậy, tính đồng đội, tinh thần đoàn kết của người lính Hải quân trên tàu buồm là một nét rất đặc trưng”, Đại úy Vũ Trọng Khôi, Chính trị viên Tàu 286-Lê Quý Đôn chia sẻ. 

Thực hiện nhiệm vụ và sinh hoạt trong trạng thái tàu nghiêng là điều không xa lạ với những người lính tàu buồm trên các hải trình luôn tiềm ẩn nhiều thử thách. Nhưng đối với chúng tôi, đây là lần đầu tiên được trải nghiệm đi trên tàu nghiêng, được giải tỏa nỗi tò mò ăn, ngủ và làm việc trên tàu nghiêng là như thế nào.

Kinh nghiệm được mọi người nhắc nhau là ăn ít để tránh đầy bụng, đi sát tường tay bám thanh vịn để tránh trượt ngã và tuyệt đối không qua lại khu vực mạn tàu khi đang hành trình trong trạng thái nghiêng vì gió to sóng lớn để tránh rủi ro. Các thủy thủ trước đó đã nhắc nhở và hướng dẫn toàn đoàn chằng buộc đồ đạc trong phòng để tránh đổ vỡ. Các đồng chí còn an ủi thêm, tàu buồm nghiêng nhưng ổn định trong khi hành trình, không rung lắc mạnh như những con tàu chiến mặt nước khác, nên không cần quá lo lắng.

Quả thật, sau những choáng váng ban đầu do tiền đình và đi lại khó khăn vì phải cố gắng giữ thăng bằng trong trạng thái người bị đổ nghiêng, mọi người cũng không mất nhiều thời gian để quen với trạng thái không mấy dễ chịu này. Cái khó là vừa ngồi ăn vừa phải cố giữ thăng bằng và giữ cố định đồ ăn trên bàn không để bị trượt đổ.

Với những người làm nhiệm vụ hậu cần, nấu ăn trên tàu nghiêng là không hề đơn giản. Lúc cơn dông ập đến, tàu rung lắc hơn, gần đến bữa trưa, trên tàu có người kinh nghiệm hơn nói khả năng “sẽ phải ăn cơm sống”. Vậy mà không hiểu bằng cách nào bữa ăn vẫn được bảo đảm cơm chín dẻo, đồ ăn ngon miệng. Thì ra nồi nấu cơm chuyên dụng trên tàu buồm có 4 tầng, chỉ 2 nồi tầng trên bị nghiêng nhiều nên cơm bị sống, đành phải đổ bỏ. Hai nồi tầng dưới cơm vẫn chín đều. Tổ hậu cần rút kinh nghiệm bữa sau nấu ít đi để bảo đảm cơm chín. 

 Tổ anh nuôi chuẩn bị bữa ăn trên Tàu buồm 286-Lê Quý Đôn.

Theo Đại úy QNCN Nguyễn Thế Anh, bếp trưởng trên Tàu buồm 286-Lê Quý Đôn, làm việc trong trạng thái nghiêng dù đã trở thành kỹ năng và khu bếp được trang bị đầy đủ các thiết bị hiện đại, nhưng để nấu được bữa ăn cơm chín dẻo, canh ngọt là cả sự cố gắng đối với tổ anh nuôi. Những thanh chống trượt ở nhà bếp, bàn ăn trong các tình huống sóng gió được sử dụng tối đa. Phòng ăn còn được trang bị các khay làm ấm thực phẩm trực tiếp đề phòng điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Có lúc thực phẩm phải được vận chuyển bằng thang máy để chống lật đổ. Hệ thống kho lạnh, kho đông, tủ lạnh, tủ đông trên Tàu buồm 286-Lê Quý Đôn rất hiện đại, bảo đảm bảo quản thực phẩm tươi ngon trong thời gian dài. 

Theo Đại úy Đoàn Tử Nguyên Ngọc, nhiều dụng cụ, đồ bếp kiểu châu Âu được trang bị trên con tàu anh em còn chưa nắm được sử dụng như thế nào và vào việc gì. Dự kiến trong những chuyến đi biển đường dài tiếp theo, tàu sẽ thử nghiệm chế biến các món ăn kiểu Âu theo phong cách đơn giản, nhưng đầy đủ dưỡng chất, bởi những khi điều kiện thời tiết không thuận lợi, nấu các món Việt Nam sẽ phức tạp hơn. Trên con tàu buồm tiêu chuẩn được đóng tại châu Âu, trang bị nhà bếp là đồng bộ với đầy đủ máy nướng bánh mì, máy đánh bột, máy đánh trứng, máy làm đá…

10 ngày hành trình liên tục trên biển tới Malaysia và 10 ngày hành trình liên tục về Việt Nam là những khoảng thời gian bận rộn với những hoạt động huấn luyện, đi ca trong các nhiệm vụ chuyên môn, hậu cần khác nhau của các thủy thủ, học viên trên tàu. 

Sau nhưng giờ thực hiện nhiệm vụ căng thẳng là những khoảng riêng tư thư giãn hiếm hoi, giúp họ hồi phục sức khỏe, chuẩn bị cho những nhiệm vụ và ca trực tiếp theo. Những lúc ấy, họ lại trở về làm người lính biển đầy lãng mạn và giàu tâm hồn. Thượng sĩ Phạm Việt Hưng- học viên Khoa Tên lửa-Pháo tàu với vẻ ngoài trông rắn rỏi hơn sau một hải trình dài không mất đi vẻ “nghệ sĩ” trên khuôn mặt đã sạm đen vì nắng gió, luôn nở nụ cười tươi. Người sĩ quan Hải quân tương lai ngượng nghịu khoe chúng tôi những vần thơ viết vội nhưng “lấp lánh ánh thép” và cũng đầy “chất thơ”: 

                           Bên bầu trời, bên tiếng sóng biển ca

                           Bàn tay rỉ máu, lòng không nản

                           Dù là đêm lạnh hay nắng cháy

                           Kéo buồm lên căng mình vươn khơi

                           Giữ bình yên cho biển đảo quê nhà.

 Chỉ huy đoàn công tác kiểm tra một tình huống huấn luyện và thao tác trên vũ khí trang bị.
Thượng sĩ Phạm Việt Hưng làm nhiệm vụ trực quan sát.

Cũng như nhiều học viên, Thượng sĩ Phạm Việt Hưng chia sẻ cùng một suy nghĩ “những kiến thức nặng về lý thuyết trên giảng đường là chưa thể đủ”. Trải nghiệm nhiệm vụ thực tế và thử sức trên những hải trình dài như thế này đối với các học viên là cơ hội hiếm có để tích lũy thêm kinh nghiệm nghề nghiệp và rèn luyện bản lĩnh, ý chí của người chiến sĩ Hải quân vững vàng, tự tin trước sóng gió biển khơi.

(Còn nữa)

Bài, ảnh: MỸ HẠNH