QĐND - Đó là đánh giá của nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Mỹ, Lê Văn Bàng trong cuộc trao đổi với báo chí bên lề Hội thảo “Quan hệ Việt Nam - Mỹ: 20 năm thành công hơn nữa”, diễn ra tại Hà Nội ngày 26-1.
- Để đạt được kết quả bình thường hóa quan hệ năm 1995, hai nước đã trải qua những khó khăn thử thách gì?
 |
Ông Lê Văn Bàng. Ảnh: Trọng Thắng
|
- Đó là một "rừng khó khăn". Đầu tiên là sau chiến tranh, Việt Nam thực hiện tìm kiếm người Mỹ mất tích (MIA), trao trả tiền, tài sản mà người Mỹ để lại... Rồi hội chứng chiến tranh Việt Nam ở Mỹ. Họ yêu cầu Việt Nam giúp họ vượt qua... Tất cả những việc đó đều rất khó, chúng ta rất cố gắng. Nhưng chúng tôi đều nghĩ, truyền thống của Việt Nam là hòa hiếu sau chiến tranh.
- Vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích sau chiến tranh (MIA) trở thành một yếu tố thúc đẩy quan hệ hai nước như thế nào?
- Khi Mỹ thi hành chính sách không thân thiện với Việt Nam, những năm 1980-1985, gia đình những người Mỹ mất tích đòi hỏi phải tìm kiếm thân nhân của họ. Sau năm 1986, Mỹ thay đổi chính sách, nhưng những gia đình này biến vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích thành ưu tiên quốc gia, yêu cầu Chính phủ Mỹ giải quyết xong, tìm hết tù binh, hài cốt, thông tin của những người mất tích thì mới bình thường hóa quan hệ. Việc đó đã mất 20 năm, từ 1975 đến 1995 và tiếp tục đến nay vẫn chưa thể hết được, nhưng yêu cầu này hiện đã giảm bớt đi.
- Tại sao lại có sự giảm bớt đó, thưa ông?
- Có thể thấy chúng ta đã làm hết sức mình. Có những lúc, trong căn phòng này đây (nhà khách Chính phủ-PV), họ sang đàm phán và nói rằng, sẽ tự tìm thông tin để tìm kiếm người Mỹ mất tích, không yêu cầu phía Việt Nam cho biết địa chỉ trước mà chỉ cần cung cấp trực thăng. Họ lên máy bay rồi mới chỉ địa điểm, nhưng đến nơi không tìm thấy gì. Những việc như thế chứng minh cho họ thấy rằng, thông tin của họ sai và Việt Nam vô cùng chân thành. Họ thừa nhận vấn đề đã được giải quyết. Cũng phải nói là Mỹ đánh giá rất cao việc Việt Nam hỗ trợ tìm kiếm người Mỹ mất tích.
- Một vấn đề hậu chiến tranh khác cũng không thể không nhắc đến trong quan hệ Việt-Mỹ, đó là tiến trình giải quyết hậu quả của chất đi-ô-xin. Điều này diễn ra trong quan hệ giữa hai nước ra sao?
- Tôi nghĩ đây là vấn đề rất khó khăn với Mỹ. Tôi nhớ khi ở Mỹ, thập niên 1990 mà nói đến vấn đề này, họ không nghe, coi như không biết, hoặc trốn tránh. Chúng ta đấu tranh mãi Mỹ mới bắt đầu nghe và dần đi đến cung cấp tài chính cho Việt Nam. Đây là vấn đề khó ở phía Mỹ, nhưng là vấn đề chính đáng ở phía Việt Nam. Chúng ta có biết bao người chịu hậu quả của chất độc da cam/đi-ô-xin. Đến giờ, Mỹ đã cung cấp tài chính để giúp đỡ là một vấn đề khá lớn trong nội bộ Mỹ.
- Là đại sứ đầu tiên tại Mỹ, sau 20 năm, ông đánh giá thế nào về quan hệ hai nước?
- Trong 20 năm qua, tôi là người trong cuộc mà cũng có những điều tôi không ngờ. Ví dụ, việc Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, việc trước đây chúng tôi yêu cầu mà không được. Kim ngạch thương mại hai nước hiện nay là 30 tỷ USD, trong khi thời gian đầu hồi tôi làm đại sứ ở Mỹ chỉ khoảng 1 tỷ USD thôi. Hay việc có đến 15-16 nghìn học sinh Việt Nam đang học tại Mỹ. Nhưng quan trọng là Việt Nam và Mỹ đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện.
- Có những điểm nào hai bên đã đặt ra, mong đợi, mà đến giờ vẫn chưa đạt được?
- Có nhiều vấn đề nhưng tôi có thể nhắc đến hai việc. Thứ nhất là hội chứng chiến tranh Việt Nam. Phía Mỹ hằng năm vẫn đưa ra nghị quyết về dân chủ nhân quyền Việt Nam, đòi trừng phạt Việt Nam, đưa quan hệ với Việt Nam tụt xuống chứ không nâng lên tiếp. Ở Việt Nam cũng có người nghi ngại quan hệ với Mỹ. Đây là những hội chứng mà tôi cho rằng, cần vượt qua để hai nước tiến lại gần nhau hơn nữa, có lợi cho nhân dân cả hai nước.
- Vậy những vấn đề trong quan hệ kinh tế giữa hai nước thì sao?
- Như tôi vừa nói, 30 tỷ USD là một con số đáng mừng. Nhưng cũng có những điểm Mỹ cần làm tốt hơn, như cá basa, tôm. Phía Mỹ cứ hay nêu ra để đánh thuế nhưng không thấy rằng, đó là lợi thế của người nông dân Việt Nam chứ không phải Chính phủ Việt Nam hỗ trợ doanh nghiệp. Như thế là người Mỹ chưa thông cảm với người Việt Nam, từ đó làm quan hệ hai nước chưa tốt lắm. Trong quan hệ kinh tế, tôi cho rằng những việc nhỏ như thế phía Mỹ cũng nên nghĩ cho kỹ trước khi đưa ra các lệnh áp giá và trừng phạt.
- Theo ông, đâu là bài học rút ra sau 20 năm?
- Có ba bài học. Thứ nhất, hai nước đều có những lợi ích chiến lược riêng. Đã có lúc có sự khác biệt, dẫn tới đấu tranh kịch liệt. Thứ hai là vượt qua hội chứng chiến tranh Việt Nam và thứ ba là vượt qua hội chứng Mỹ. Nếu ba việc này chúng ta làm tốt, quan hệ hai nước sẽ còn tiến xa hơn nữa.
- Xin cảm ơn Đại sứ!
NGỌC HÀ (ghi)