QĐND - Chính sách tiền tệ (CSTT) cùng với các chính sách kinh tế vĩ mô khác ở Việt Nam trong thời gian qua đã đóng góp một vai trò không nhỏ vào quá trình ổn định kinh tế vĩ mô và tái cấu trúc của nền kinh tế. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi mới của nền kinh tế, chính sách này cần có sự chuyển dịch…
Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt hơn
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đổi mới đã được hơn 20 năm. Trong quãng thời gian đó, cùng với sự phát triển không ngừng của hệ thống ngân hàng Việt Nam, CSTT được sử dụng ngày càng linh hoạt, hiệu quả và mang tính thị trường hơn. CSTT đã tập trung nhiều hơn vào mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô là những mục tiêu dài hạn của CSTT.
Mặc dù từ năm 2012, CSTT được điều hành linh hoạt hơn để góp phần hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thị trường, tuy nhiên NHNN vẫn luôn thận trọng với rủi ro lạm phát. Việc điều hành CSTT của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động định hướng thị trường thay vì chạy theo như trước đây, xu hướng điều chỉnh chính sách như lãi suất, tỷ giá được NHNN thông báo trước đến thị trường và được điều chỉnh theo lộ trình để tránh gây sốc cho nền kinh tế, nhờ đó kỳ vọng thị trường được kiểm soát khá tốt, lãi suất và tỷ giá diễn biến đúng theo xu hướng dự kiến của NHNN, góp phần giúp NHNN đạt được mục tiêu đặt ra. NHNN đã thúc đẩy mạnh mẽ công tác thông tin truyền thông, một mặt để tuyên truyền giải thích rõ với doanh nghiệp và người dân về những thay đổi chính sách của NHNN, mặt khác tạo sự đồng thuận rộng rãi từ phía thị trường. Khi chính sách của NHNN đã được nắm bắt rõ ràng hơn thì các chủ thể kinh tế cũng điều chỉnh hành vi phù hợp hơn với thay đổi chính sách.
 |
Hoạt động nghiệp vụ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Ảnh: Kiều Linh. |
NHNN đã chú trọng bảo đảm kỷ luật thị trường tiền tệ, điều hành CSTT được kết hợp chặt chẽ với việc siết chặt công tác thanh tra giám sát, đảm bảo thực thi nghiêm các chính sách của NHNN, qua đó giúp cơ chế truyền tải CSTT được vận hành tốt hơn.
Lãi suất giảm liên tục theo mức giảm lạm phát
Với CSTT đa mục tiêu mà NHNN Việt Nam thực hiện thời gian qua cho thấy, với nỗ lực trong điều hành CSTT, NHNN đã giúp Chính phủ Việt Nam ổn định được kinh tế vĩ mô: Lạm phát đã được kiểm soát, lãi suất ngày càng giảm, cán cân thanh toán thặng dư trở lại với mức cao, thị trường tiền tệ, ngoại hối ổn định.
Lạm phát đã giảm liên tục từ mức đỉnh 23,0% tháng 8-2011 xuống chỉ còn 5,0% tháng 8-2012, sau đó tăng nhẹ và ổn định, đến tháng 6-2013 ở mức 6,7%, trong đó có sự đóng góp tích cực của việc kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu tiền tệ (theo đó, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được kiểm soát ở mức thấp hơn so với các năm trước: Năm 2011, tổng phương tiện thanh toán tăng 12,07%, năm 2012 tăng 22,38%, thấp hơn so với mức bình quân 30,34%/năm trong giai đoạn 2007-2010. Tín dụng tăng 14,33% trong năm 2011, tăng 8,91% trong năm 2012, thấp hơn nhiều so với mức tăng bình quân 35,91%/năm của giai đoạn 2007-2010).
Lãi suất giảm liên tục theo mức giảm của lạm phát chủ yếu nhờ dòng tiền tập trung vào hệ thống ngân hàng do lòng tin vào đồng Việt Nam (VND) tăng cao. Lãi suất cho vay vào cuối năm 2011 đã giảm và phổ biến ở mức 17-19%/năm như mục tiêu NHNN đề ra; cuối năm 2012 tiếp tục giảm gần về mức 9-10%/năm theo định hướng; 4 tháng đầu năm 2013 giảm tiếp từ 2-3%/năm. Tính chung, từ cuối tháng 8-2011 đến nay, mặt bằng lãi suất huy động đã giảm khoảng 7-10%/năm, lãi suất cho vay giảm 9-12%/năm, gần về mức lãi suất của những năm 2005-2006. Hiện nay, lãi suất của các khoản cho vay mới đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 8-10%/năm, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh ở mức 9-12%/năm, trong đó, đối với khách hàng tốt chỉ từ 7,5-8%/năm. Đối với các khoản cho vay cũ có lãi suất hơn 15%/năm cũng được các TCTD tích cực giảm theo lời hiệu triệu của Thống đốc NHNN. Tỷ trọng dư nợ cho vay với lãi suất hơn 15%/năm giảm mạnh từ mức khoảng 65% vào thời điểm trước 15-7-2012 xuống còn 20,6% vào cuối năm 2012 và đến cuối tháng 4-2013 chỉ còn 14,7%; thời gian tới còn tiếp tục giảm.
Thặng dư cán cân thanh toán kỷ lục do cán cân vãng lai lần đầu tiên thặng dư lớn, cán cân vốn duy trì mức thặng dư khá, nhờ đó giúp NHNN mua được ngoại tệ để tăng đáng kể dự trữ ngoại hối. Đến nay, mức dự trữ ngoại hối đã khá sát mức 3 tháng nhập khẩu là mức tương đối an toàn theo chuẩn quốc tế.
Thị trường diễn biến ổn định, huy động vốn tăng cao và NHNN cung tiền mua ngoại tệ giúp thanh khoản dồi dào. Thanh khoản cải thiện nên nhu cầu vay vốn trên liên ngân hàng để cân đối vốn không cao, do vậy không tạo sức ép tăng lãi suất liên ngân hàng như thời gian trước đây. Lãi suất liên ngân hàng giảm xuống còn mức 13-14%/năm cuối năm 2011 và 5-6%/năm cuối năm 2012, tiếp tục ổn định ở mức thấp trong những tháng đầu năm 2013 (2-3%/năm kỳ hạn qua đêm, 4-5%/năm kỳ hạn một tháng). Đây là mức giảm nhanh và mạnh nhất trong nhiều năm trở lại đây. Thanh khoản dồi dào cũng giúp hệ thống ngân hàng gia tăng nắm giữ trái phiếu Chính phủ, vừa giúp Ngân sách Nhà nước có nguồn vốn giải ngân cho các chương trình, dự án, từ đó giúp cho các doanh nghiệp có khả năng chi trả, tiêu thụ bớt hàng tồn kho, qua đó tác động khơi thông dòng tiền trong nền kinh tế; mặt khác cũng tạo công cụ cho các tổ chức tín dụng để có thể tiếp cận vốn của NHNN khi gặp khó khăn.
Thị trường ngoại hối ổn định, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng không còn biểu hiện căng thẳng mà diễn biến linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ trong biên độ cho phép, chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do được thu hẹp đáng kể, thị trường ngoại tệ tự do không còn hoạt động công khai như trước đây. Lòng tin của thị trường vào đồng Việt Nam tăng lên, tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ và vàng giảm, do vậy tình trạng đô la hóa giảm, phản ánh qua tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán cuối năm 2012 giảm xuống 12,35% từ mức 15,8% cuối năm 2011 và khoảng 20% vào những năm trước đây. Các tổ chức kinh tế và cá nhân đẩy mạnh bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho NHNN mua một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, nâng cao niềm tin của thị trường đối với các giải pháp, chính sách của NHNN.
Cần chú trọng mục tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế
CSTT thời gian qua đã được NHNN Việt Nam thực hiện một cách linh hoạt và mang lại những kết quả tích cực đối với việc thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Tuy nhiên, do những khó khăn nên còn một số vấn đề đáng lưu ý như: Tín dụng tăng thấp so với định hướng do những năm gần đây, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với hiệu quả thực thi CSTT. Cùng lúc đó, hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước gặp nhiều khó khăn, tình trạng doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động gia tăng trong điều kiện sức mua của thị trường giảm mạnh, hàng tồn kho tăng cao khiến cho CSTT mặc dù đã điều hành nới lỏng đáng kể từ năm 2012 nhưng đến giữa năm 2013, tín dụng tăng thấp so với định hướng.
Mặc dù mục tiêu cuối cùng của CSTT đã được xác định khá rõ trong Luật NHNN nhưng thực tế điều hành đã cho thấy CSTT vẫn phải quan tâm đến những mục tiêu khác như bảo đảm an toàn hệ thống, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chống đô la hóa. Điều này làm phức tạp quá trình điều hành CSTT. Trước những khó khăn này, để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh từ nay đến năm 2015, công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN nên chủ động thực hiện theo mục tiêu cuối cùng của CSTT vẫn là kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu hoạt động của CSTT là khối lượng cung ứng tiền. Việc ước lượng hàm cầu tiền nhằm mục tiêu dự báo nhu cầu tiền của nền kinh tế được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới và đã mang lại hiệu quả tích cực cho công tác điều hành CSTT của ngân hàng trung ương các nước. Áp dụng cho Việt Nam, nhóm tác giả đã chạy mô hình hàm cầu tiền, và kết quả ước lượng cho thấy để đạt được tốc độ tăng trưởng khoảng 5,5%/năm và tỷ lệ lạm phát khoảng 8% bình quân thời kỳ 2013-2015 thì cung ứng tiền tệ cần tăng bình quân khoảng 17%/năm.
Để thực hiện được mục tiêu hoạt động, tiến tới đạt mục tiêu cuối cùng như trên, trong thời gian trước mắt, NHNN nên tiếp tục sử dụng các công cụ kể cả trực tiếp và gián tiếp trong điều hành, song từng bước gỡ bỏ các công cụ điều hành mang tính trực tiếp nhằm tạo điều kiện cho một CSTT mang tính thị trường cao.
GS, TS TRẦN THỌ ĐẠT