QĐND - Những năm gần đây, doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường, mở rộng cơ hội kinh doanh. Với tổng vốn đăng ký đạt tới hơn 15, 5 tỷ USD, đầu tư ra nước ngoài đang có những tín hiệu khả quan...
Vốn đầu tư ra nước ngoài tăng nhanh
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính chung cả vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm, chỉ trong quý I năm 2013, các doanh nghiệp Việt Nam đã đăng ký đầu tư ra nước ngoài là 2, 65 tỷ USD. Như vậy, tính đến hết quý I năm 2013, có 742 dự án đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký lũy kế đạt hơn 15, 5 tỷ USD. Các dự án đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam tập trung phần lớn trong lĩnh vực khai khoáng với 99 dự án, tổng vốn đầu tư 4, 6 tỷ USD, (chiếm 13,3% về số dự án và 46% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản với 80 dự án, tổng vốn đầu tư 1, 9 tỷ USD (chiếm 10,8% số dự án và 12,6% tổng vốn đầu tư); lĩnh vực sản xuất điện đứng thứ ba với 1, 8 tỷ USD vốn đầu tư, chiếm 12,1% về vốn.
 |
Các nhân viên của Movitel (thương hiệu Viettel tại Mô -dăm-bích) đang bán hàng tại một khu chợ vùng nông thôn.
|
Doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư, hoạt động ở 59 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, Lào đứng vị trí thứ nhất với 227 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 4, 2 tỷ USD (chiếm 30,6% số dự án và 27,1% vốn đầu tư), Cam-pu-chia đứng vị trí thứ 2 với 129 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 2, 7 tỷ USD (chiếm 17,4% số dự án và 17,6% vốn đầu tư). Tiếp theo là Nga với tổng vốn đăng ký hơn 2, 3 tỷ USD (chiếm 15,2% vốn đầu tư), Vê-nê-xu-ê-la với tổng vốn đăng ký hơn 1, 8 tỷ USD (11,8% vốn đầu tư)...
Về tình hình giải ngân trong các dự án nói trên, vốn thực hiện lũy kế đến nay ước đạt khoảng 3, 8 tỷ USD; trong đó khoảng 2, 9 tỷ USD trong lĩnh vực dầu khí; gần 500 triệu USD trong lĩnh vực trồng cây cao su; khoảng 400 triệu USD trong lĩnh vực thủy điện; 249 triệu USD trong lĩnh vực viễn thông… Vốn đầu tư thực hiện tại Lào đạt khoảng 691 triệu USD; Cam-pu-chia đạt khoảng hơn 621 triệu USD...
Thị trường mở rộng, hiệu quả khả quan
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong tổng vốn thực hiện của các dự án đầu tư ra nước ngoài, có một phần đáng kể được dùng để mua sắm, sử dụng hàng hóa, máy móc, thiết bị, dịch vụ từ trong nước nhằm phục vụ cho các dự án ở nước ngoài. Điều này góp phần làm tăng giá trị xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam ra nước ngoài.
Cùng với đó, một số doanh nghiệp lớn cho biết, việc đầu tư ra nước ngoài đang đạt hiệu quả tích cực. ông Phùng Đình Thực, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) cho biết, đến hết năm 2012, PVN đã đầu tư ở trên 14 nước. Nhờ đó, trữ lượng dầu khí của PVN ở các mỏ tại nước ngoài lên tới 170 triệu tấn dầu quy đổi. Trong đó, có 7 mỏ đang tiến hành khai thác (tại Nga có 4 mỏ, Ma-lai-xi-a có 2 mỏ và Vê -nê-xu-ê-la có 1 mỏ). Cũng trong năm 2012, PVN đã khai thác được 1, 11 triệu tấn dầu từ các mỏ ở nước ngoài. Lợi nhuận từ các dự án đầu tư ra nước ngoài của PVN năm 2012 là 160 triệu USD. Năm 2013 này, PVN đặt mục tiêu doanh thu tại các dự án ở nước ngoài sẽ vượt 800 triệu USD.
Theo Đại tá Lê Đăng Dũng, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) , hiện nay Viettel đã mở rộng kinh doanh viễn thông ở 7 quốc gia ở 3 châu lục với 110 triệu dân. Tại các thị trường này, Viettel đã đạt tổng doanh thu trên 600 triệu USD. Trong những năm qua, Viettel đã liên tục chuyển lợi nhuận từ các thị trường nước ngoài về nước: Năm 2011 chuyển về nước 40 triệu USD, năm 2012 chuyển về khoảng 76 triệu USD. Tại những quốc gia mà Viettel đã hoạt động được trên 2 năm thì phần vốn đầu tư đã được khấu hao hết, Viettel sẽ chỉ việc thu lợi nhuận. "Đầu tư ra nước ngoài sẽ giúp Viettel mở rộng được thị trường, tối ưu được doanh thu, lợi nhuận, rèn luyện được bộ máy của mình và tăng được giá trị thương hiệu" - Đại tá Lê Đăng Dũng đánh giá.
Viettel đang tranh thủ cơ hội của khủng hoảng kinh tế toàn cầu để mua lại các công ty nước ngoài với giá rẻ. Phó tổng giám đốc Viettel cho biết, nếu không có đợt khủng hoảng kinh tế hiện nay, mỗi thương vụ đầu tư viễn thông ở nước ngoài sẽ có giá không dưới 1 tỷ USD. Nhưng với việc chớp được thời cơ và có cách làm của mình, Viettel đã tiết giảm được tối đa số vốn bỏ ra.
Theo Chủ tịch Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai Đoàn Nguyên Đức, nếu từ năm 2007 ông không mạnh tay đầu tư sang Lào, sau đó là Cam -pu-chia và mới đây là Mi -an-ma thì bây giờ chỉ còn biết "ngồi bó gối" vì kinh tế trong nước đang vô cùng khó khăn, đặc biệt bất động sản đóng băng triền miên.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật
Theo các chuyên gia kinh tế, thị trường quốc tế như đại dương mênh mông, có sức hấp dẫn mạnh đến độ các nhà đầu tư không thể ngoảnh mặt chối từ. Đó là lý do khiến doanh nghiệp đua nhau tìm cơ hội ở nước ngoài. Đây cũng là một tất yếu của việc hội nhập kinh tế.
Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong, chuyên gia kinh tế, cho biết, ông đã "giật mình" khi nhìn vào số vốn lớn mà doanh nghiệp Việt Nam đã đổ ra nước ngoài trong thời gian qua. Cũng theo ông Phong, vừa rồi một đài phát thanh ở Nga đã đánh giá Việt Nam là một trong những nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu tại Nga.
 |
Nhân viên Movitel (thương hiệu Viettel tại Mô -dăm-bích) đang giới thiệu dịch vụ cho một người dân địa phương.
|
"Theo nguyên tắc hội nhập, nền kinh tế nào cũng sẽ có dòng vốn vào và ra. Nhiều người cứ lo đầu tư ra nước ngoài thì sẽ mất ngoại tệ, nhưng nếu doanh nghiệp kinh doanh tốt thì sẽ có điều kiện mở rộng doanh thu và lợi nhuận, chuyển lợi nhuận đó về nước, tận dụng được vốn, lao động, công nghệ đã sẵn có" - Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong phân tích.
Điều khiến các chuyên gia và doanh nghiệp còn băn khoăn trong việc đầu tư ra nước ngoài đó là hành lang pháp lý cho việc này còn chưa hoàn thiện và các chính sách, cơ chế hỗ trợ cũng chưa rõ ràng.
Theo PGS.TS Đặng Văn Thanh, Nguyên phó chủ nhiệm ủy ban Kinh tế - Ngân sách của Quốc hội, nên luật hóa việc đầu tư ra nước ngoài bằng việc xây dựng Luật đầu tư ra nước ngoài. "Hiện nay, Luật doanh nghiệp có một vài ý về việc này nhưng còn rất sơ sài. Cùng với việc xây dựng luật thì cũng phải có chiến lược quốc gia trong việc đầu tư ra nước ngoài, trong đó làm rõ lợi ích quốc gia trong vấn đề này" - PGS.TS Đặng Văn Thanh nhìn nhận. Theo ông, cần làm rõ nghĩa vụ về thuế, để các dự án đầu tư ra nước ngoài phải có phần thu thuế ở trong nước, tránh việc chuyển giá qua lại giữa trong nước và nước ngoài khiến cho việc đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp sẽ rất khó kiểm soát, thu thuế. Bên cạnh đó, cũng phải có hỗ trợ về chính sách, về thông tin cho doanh nghiệp chứ không thể để doanh nghiệp "tự bơi" hoàn toàn.
Đồng tình với quan điểm trên, Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong, còn chỉ ra rằng, tính liên kết, phối hợp của doanh nghiệp Việt Nam còn kém trong đầu tư ra nước ngoài. Một nguy cơ nữa là vấn đề rửa tiền, lập công ty "ma" để chuyển tiền ra nước ngoài. Bên cạnh đó, các nhà quản lý cũng phải xem xét lại môi trường đầu tư trong nước, khi một số lĩnh vực đáng lẽ nên được tập trung vốn đầu tư cho trong nước, nhưng do môi trường trong nước không thuận lợi nên buộc doanh nghiệp phải đầu tư ra nước ngoài.
Các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, môi trường nước ngoài còn khá xa lạ, vì thế doanh nghiệp rất cần được hỗ trợ về thông tin, về pháp lý, kết nối quan hệ. Các đại sứ quán, tham tán thương mại của Việt Nam phải tăng cường trách nhiệm cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng cần tăng cường liên kết, cung cấp thông tin cho nhau. Hệ thống ngân hàng cần xem xét mở các hoạt động ở nước ngoài để phục vụ nhu cầu giao dịch, chuyển tiền của doanh nghiệp, tránh chuyện doanh nghiệp phải giao dịch bằng tiền mặt rất nguy hiểm.
Về phương diện quốc gia, các doanh nghiệp, chuyên gia kinh tế cũng đề nghị nên tăng cường các hiệp định song phương giữa Việt Nam và các nước để có những bảo đảm vững chắc về pháp lý cho đầu tư hai chiều, thỏa thuận về đánh thuế, bảo đảm an ninh cho hoạt động của doanh nghiệp.
Bài và ảnh: Hồ Quang Phương