Nông nghiệp là ngành gây nhiều băng khoăn, lo ngại nhất đối với những người hoạch định chính sách khi Việt Nam chính thức ra nhập WTO. Một nền nông nghiệp còn giữ nhiều phương thức canh tác lạc hậu, ít vốn, trình độ hội nhập kinh tế thế giới của nông dân còn yếu... sẽ chống chọi thế nào với những cơn sóng mạnh WTO? Nhiều hội thảo với các kiến nghị đã được đưa ra. Nhưng tựu trung lại trong một cuộc chơi sòng phẳng thì người chủ động, linh hoạt trong mọi tình huống sẽ có cơ hội chiến thắng cao nhất...
Xây dựng các thương hiệu nông sản mạnh
Trong phân tích của mình, giáo sư Võ Tòng Xuân (Đại học An Giang) lo lắng cho rằng: đến nay, thế giới chỉ biết gạo có xuất xứ từ Việt Nam có tên chung là gạo "Việt Nam" chứ hiếm thấy thương hiệu riêng biệt có sức mạnh nào. Nhiều chuyên gia nước ngoài không tưởng tượng nổi rằng quốc gia xuất khẩu gạo đứng hàng thứ 2 trên thế giới mà lại do hàng triệu hộ nông dân cá thể sản xuất trên những mảnh đất nhỏ (trung bình 0,8ha đất nông nghiệp/hộ- số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) với cả trăm giống lúa khác nhau, mạnh ai nấy trồng. Trong khi đó các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Nhà nước thì ít có mối khách hàng, nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định, đến khi xuất khẩu được thì lại phải xuất hàng không thương hiệu.
Vấn đề thương hiệu là sống còn khi bước vào một thị trường khổng lồ có hàng triệu loại hàng hóa khác nhau. Nông sản của ta cũng có rất nhiều thương hiệu mà người dân trong nước đã biết tới như nhãn lồng Hưng Yên, Hải Dương, bưởi Năm Roi, xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn, gà Đông Cảo... Điều cần phải tính là làm sao những người tiêu dùng ở những vùng đất xa xôi, chưa từng tới Việt Nam cũng phải biết đến các thương hiệu nông sản này, ưa chuộng và tìm mua nó.
Các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp nông nghiệp cũng như các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cần có chiến lược quảng bá thương hiệu dựa trên sự nghiên cứu kỹ lưỡng về sở thích, văn hóa của người tiêu dùng ở những quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau. Hiện nay, ta đã có những sản phẩm tạo được uy tín tại một số thị trường trên thế giới. Nhưng điều cần lưu ý là khi đã có thương hiệu, chỗ đứng trên một số thị trường nhất định thì phải giữ vững chất lượng để không bị suy giảm giá trị của thương hiệu. Lời nhắc nhở này có lẽ là không thừa bởi không ít doanh nhân Việt Nam còn giữ kiểu kinh doanh manh mún, thời vụ, hàng bán chạy là sản xuất ào ạt, dẫn tới chất lượng giảm sút nghiêm trọng.
Luôn cập nhật thông tin, dự báo thị trường
Thiếu cập nhật thông tin, nhất là thông tin thị trường thế giới sẽ gây ra những tổn thất lớn. Đáng lo thay, đây lại đang là một điểm yếu của doanh nghiệp chế biến nông sản và nông dân ta. Đã có lúc, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cà phê ào ạt khi mức giá thấp, đến khi giá trên thế giới tăng cao thì lượng hàng còn lại không nhiều, doanh nghiệp, người nông dân đành bấm bụng tiếc thầm. Để tham gia tích cực hơn vào thị trường thế giới, nhiều doanh nghiệp đã chọn cách mua bán cà phê cũng như các loại nông sản khác trong "thị trường ảo" thông qua mạng Internet-một xu thế phát triển của thế giới. Đây là một tín hiệu tích cực nhưng cũng có thể đem lại những thiệt hại lớn nếu sự hiểu biết về thị trường, sự cập nhật thông tin không tốt.
Những hiện tượng cứ thấy được giá thì thi nhau trồng mía, trồng thanh hao hoa vàng, nuôi cá tra, cá ba sa một cách ào ạt, tự phát ở một số địa phương dẫn tới cung vượt quá cầu, kỹ thuật nuôi trồng không tốt nên cho sản phẩm kém chất lượng… là bài học chung cho nông dân cũng như những người quản lý. Việc dự báo thị trường để đề ra kế hoạch sản xuất đúng đắn rõ ràng là vô cùng cần thiết. Nhưng hiện nay, nhiều người cảm thấy dường như các nhà quản lý đang lúng túng trước việc nông dân thấy mối lợi trước mắt thì xé rào trồng, nuôi các loại nông sản không theo đúng quy hoạch, gây xáo trộn thị trường. Có ý kiến băn khoăn cùng với việc tư vấn, khuyên nhủ thì liệu có thể dùng các chế tài đủ mạnh để duy trì sự ổn định trong sản xuất, cung ứng nông sản?
Cập nhật thông tin đầy đủ sẽ là cơ sở để phân tích xem đầu tư vào lĩnh vực nào là thích hợp nhất và sinh lợi nhất. Việc có thông tin đầy đủ cũng sẽ giúp các doanh nghiệp nông nghiệp xác định đúng mục tiêu và áp dụng công nghệ phù hợp.
Cung cấp thông tin, tư vấn, tìm bạn hàng cho doanh nghiệp là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các hội nghề nghiệp. Nhưng hiện nay, không phải hiệp hội nào cũng làm tốt nhiệm vụ của mình. Nhiều hiệp hội hoạt động mang nặng tính hành chính như một cơ quan nhà nước, thiếu thiết thực lại thụ động. Khi gia nhập WTO, các hiệp hội ngành nghề sẽ giữ vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, tìm bạn hàng mà còn đưa đến các quyết định ở tầm vĩ mô. Một người làm chính sách cho rằng, trong nhiều trường hợp quyết định là ở các hiệp hội chứ không phải chính phủ. Hiệp hội phải trở thành cầu nối hiệu quả giữa doanh nghiệp, thị trường và với chính phủ, đem lại các lợi ích thiết thực cho hội viên.
Nhiều chuyên gia cho rằng, khi Việt Nam gia nhập WTO thì các hiệp hội (trong đó các hiệp hội trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm khá đông) sẽ phải giữ vai trò trung tâm, chủ động, chứ không thể phụ thuộc vào nhà nước như hiện nay.
Tạo cơ chế, chính sách thông thoáng
Theo phân tích của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhiều nông sản của ta có vị thế quan trọng trên thị trường thế giới như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều. Trợ cấp về nông nghiệp của Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với giới hạn cho phép của WTO (10% thu nhập nông nghiệp), như thế ta không phải lo nhiều về trợ cấp. Như vậy, ngành nông nghiệp Việt Nam có cơ hội chiếm lĩnh thị trường khác chứ không chỉ lo bị "đè bẹp". Để tạo thuận lợi, Nhà nước cần đưa ra những cơ chế, chính sách phù hợp.
Tiến sĩ Chu Tiến Quang, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phân tích, do điều kiện đặc thù của nông thôn và tính khác biệt về điều kiện kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp, Nhà nước vẫn phải trực tiếp tác động vào doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đang hoạt động ở nông thôn. Từ đó điều chỉnh hoạt động của từng nhóm doanh nghiệp theo hướng lành mạnh, bảo đảm từng bước hội nhập với thông lệ chung của cơ chế thị trường, có hiệu quả, phát triển bền vững. Sự tác động của Nhà nước vào từng khu vực là không giống nhau và phải theo các đặc thù của từng nhóm doanh nghiệp. Tất nhiên, sự tác động này không được vượt ngoài quy định cho phép của WTO.
Để thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn thì các nhà quản lý cần phải tham gia tích cực hơn vào quá trình hoạch định chính sách đầu tư để bảo đảm các vấn đề chính yếu như cấp phép, quản lý, điều kiện đầu tư, đất đai và hạ tầng sơ sở với tinh thần nhằm hướng thúc đẩy chứ không phải là cản trở ý định đầu tư của của doanh nghiệp nước ngoài.
Giáo sư Võ Tòng Xuân kiến nghị, Nhà nước cần đầu tư gấp rút và ưu tiên việc cải tiến các chương trình giáo dục và đào tạo cho nông dân, công nhân, nhà quản lý những kiến thức và kỹ năng phù hợp với yêu cầu toàn cầu hóa. Đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học để cho ra các giống cây trồng và vật nuôi hiệu quả, kể cả những giống có gien chuyển đổi thích nghi điều kiện canh tác khắc nghiệt của nông dân vùng sâu, vùng xa; giảm giá thành sản xuất nông sản; hoàn thiện công nghệ sau thu hoạch; phát triển thị trường nông sản.
Với tính linh hoạt, không đầu hàng khó khăn của con người Việt Nam, tin rằng con tàu nông nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nông nghiệp nói riêng trân đại dương WTO sẽ vững lái, thu nhiều mẻ lưới thành công.
QUỲNH DƯƠNG