QĐND - Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đang được xin ý kiến đóng góp của nhân dân, tại Điều 48 (sửa đổi, bổ sung Điều 77 Hiến pháp năm 1992), ngoài giữ nguyên quy định của Hiến pháp hiện hành “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân”, đã bổ sung nội dung: “Việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định”. Tuy nhiên, nhiều người dân đến nay vẫn băn khoăn về nội hàm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là đối với quy định “mới” về nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự, trong khi cơ quan chức năng chưa cung cấp nhiều thông tin làm rõ quy định này. Vì vậy qua bài viết, chúng tôi mong giúp bạn đọc hiểu thêm về nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là nội dung dự kiến bổ sung “Việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự do luật định” trong dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.

Nghiên cứu các bản Hiến pháp của nước ta trước đây cho thấy quy định về nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của công dân tuy khác nhau, nhưng có tính kế thừa nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng. Bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, tại Mục A “Nghĩa vụ” của Chương II “Nghĩa vụ của công dân” đã quy định “Mỗi công dân Việt Nam phải: Bảo vệ Tổ quốc (Điều thứ 4)”; “Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính (Điều thứ 5)”. Trong giai đoạn mới của cách mạng, bản Hiến pháp năm 1959, tại Chương III “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc” (Điều 42). Trong Hiến pháp năm 1980, quy định “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân”; “Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân” (Điều 77). Trong Hiến pháp năm 1992, tại Điều 77 quy định “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân”.

Các bản Hiến pháp trên đều có điểm chung là quy định bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân; công dân phải có nghĩa vụ đi lính (thực hiện nghĩa vụ quân sự); ngoài ra, trong các bản Hiến pháp gần đây còn bổ sung trách nhiệm công dân tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, pháp luật chưa cụ thể hóa quy định mang tính hiến định của Hiến pháp hoặc lại quy định ở rải rác trong các văn bản khác nhau nên nhiều người vẫn đồng nhất hiểu rằng nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ đi lính thực hiện nghĩa vụ quân sự, đồng thời họ cũng không rõ về các phương thức thể hiện trách nhiệm tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân của mình thế nào.
Đã có thời gian, đối với những công dân không phải làm nghĩa vụ quân sự và những người được tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ thời bình, thì pháp luật có quy định riêng về trách nhiệm đóng góp cho xã hội, ví dụ như: Quy định về nghĩa vụ lao động công ích, theo đó độ tuổi phải thực hiện nghĩa vụ này cao hơn độ tuổi công dân nhập ngũ (Điều 7, Pháp lệnh về nghĩa vụ lao động công ích của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 1999 quy định: “Công dân Việt Nam, nam từ đủ 18 tuổi đến hết 45 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi đến hết 35 tuổi, có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ lao động công ích hằng năm”. Thực hiện Pháp lệnh này đã góp phần cải thiện việc bảo đảm công bằng xã hội về trách nhiệm đóng góp của mọi công dân cho đất nước. Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện Pháp lệnh, cũng đã xuất hiện một số bất cập, chẳng hạn như: Ở hầu hết các địa phương chủ yếu huy động bằng tiền là chưa đúng mục đích của Pháp lệnh, biến nghĩa vụ lao động công ích thành như một dạng thuế; mặt khác, tỷ lệ huy động thấp tạo nên sự thiếu công bằng trong việc đóng góp của người dân và tỷ lệ sử dụng quỹ huy động được theo quy định của pháp lệnh cũng thấp; có sự bất cập giữa việc quy định huy động 10 ngày công chung cho tất cả các đối tượng ở thành thị, nông thôn, nơi có cơ sở hạ tầng tương đối tốt cũng như nơi cơ sở hạ tầng chưa tốt; đồng thời việc bãi bỏ Pháp lệnh này, người dân sẽ bớt gánh nặng đóng góp ở cộng đồng. Vì vậy, ngày
5-4-2006, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 1014/2006/NQ-UBTVQH11 về việc chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh về nghĩa vụ lao động công ích nói trên.

Để góp phần tăng cường bảo đảm công bằng xã hội, ngoài quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự, thì một số hình thức để thực hiện nghĩa vụ quân sự khác và trách nhiệm của công dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân cũng được pháp luật quy định công nhận như công dân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, như: Khoản 2, Điều 8 (Chế độ phục vụ của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức Công an nhân dân) của Luật Công an nhân dân năm 2005 quy định: “Công dân phục vụ trong Công an nhân dân được miễn thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ”; khoản 2, Điều 49 (Chế độ, chính sách đối với dân quân thường trực) của Luật Dân quân tự vệ năm 2009 quy định: “Dân quân nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ, trong đó có ít nhất 12 tháng làm nhiệm vụ dân quân thường trực thì được miễn thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ...”.
Chính sách tạm hoãn, tạm miễn thực hiện nghĩa vụ quân sự đã được Luật Nghĩa vụ quân sự và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành nêu cụ thể như: Nghị định số 38/2007/NĐ-CP ngày 15-3-2007 về việc tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ thời bình đối với công dân nam; Nghị định số 42/2011/NĐ-CP ngày 13-6-2011 quy định công dân thuộc diện làm nghĩa vụ quân sự được miễn trong thời chiến;… Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư liên tịch số 175/TTLT-BQP-BGDĐT ngày 13-9-2011 Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 38/2007/NĐ-CP ngày 15-3-2007 về việc tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ thời bình đối với công dân nam… Việc thực hiện các quy định này đã tạo cơ hội cho nhiều công dân tiếp tục được học tập, lao động, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng Tổ quốc.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mọi mặt của đất nước và trước những yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, trong đó đối tượng tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình quá rộng do hệ thống giáo dục quốc dân đã phát triển với nhiều loại hình, ngành nghề đào tạo, nhất là các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp thực hiện xét tuyển nên công dân tham gia học ngày càng nhiều nên số được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong tổng số công dân trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ hằng năm chiếm tỷ lệ lớn, gây khó khăn cho địa phương, khó bảo đảm công bằng xã hội... bên cạnh đó, thời gian phục vụ nghĩa vụ quân sự tại ngũ trong thời bình hiện nay là 18 tháng lại khác với thời hạn 3 năm của công dân phục vụ có thời hạn trong công an nhân dân.

Qua giám sát của cơ quan chức năng của Quốc hội về việc thực hiện các quy định của pháp luật về nghĩa vụ quân sự và công dân phục vụ có thời hạn trong công an nhân dân cho thấy, số lượng công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự và phục vụ có thời hạn trong công an nhân dân hằng năm chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số nam công dân trong độ tuổi nhập ngũ; nhiều nơi số được tạm hoãn, tạm miễn lên đến hơn 40%, có địa phương trong 5 năm liền không có cán bộ, công chức từ cấp xã trở lên đi thực hiện nghĩa vụ quân sự; một bộ phận công dân đã có việc làm, có trình độ học vấn cao, có chuyên môn kỹ thuật và con em cán bộ, công chức, các gia đình có điều kiện kinh tế thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ chưa nhiều (chỉ chiếm 4,94%) và có xu hướng giảm; con em nông dân, người chưa có việc làm chiếm số đông (hơn 80%) và có xu hướng tăng; tỷ lệ con em là người dân tộc còn thấp (khoảng 14%). Trong điều kiện số công dân nhập ngũ hằng năm chỉ chiếm 0,12% tổng dân số và 5,87% tổng số công dân nam trong độ tuổi nhập ngũ (từ 18 đến 25 tuổi). Do đó, một số vấn đề cần được quan tâm và giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn là làm thế nào để bảo đảm công bằng xã hội, đặc biệt là giữa công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ và công dân không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự; giữa công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự và công dân phục vụ có thời hạn trong công an nhân dân… đồng thời góp phần đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.

Theo quy định của Hiến pháp, quyền phải luôn gắn với nghĩa vụ của công dân. Vì vậy, để bảo đảm công bằng xã hội, cần phải có quy định để mọi công dân đều có thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình trong “bảo vệ Tổ quốc” cần phải có nhiều hình thức phục vụ khác nhau vì số công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân hằng năm chiếm tỷ lệ rất nhỏ, mặt khác cũng không đủ điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí cho tất cả số công dân này có thể vào phục vụ trong lực lượng vũ trang như có nước đã làm.

Tham khảo pháp luật một số quốc gia đã quy định cụ thể về các hình thức phục vụ dân sự thay thế việc thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ, như: Hiến pháp nước Cộng hòa Bê-la-rút năm 1994 (được sửa đổi, bổ sung ngày 24-11-1996; ngày 17-10-2004) tại Điều 57 đã quy định: “Bảo vệ nước Cộng hòa Bê-la-rút là nghĩa vụ thiêng liêng của công dân nước Cộng hòa Bê-la-rút.
Trình tự thực hiện nghĩa vụ quân sự, căn cứ, điều kiện miễn thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc thay bằng phục vụ dân sự theo quy định của luật”.

Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993, tại Điều 59 đã quy định: “(1). Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân Liên bang Nga. (2). Công dân Liên bang Nga thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của luật. (3). Công dân Liên bang Nga trong trường hợp vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo mà không thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc trong những trường hợp do luật quy định thì có quyền thay bằng hình thức phục vụ dân sự”. Theo pháp luật của các nước này, quy định nhiều công việc, ngành nghề, địa bàn trong các lĩnh vực khác nhau để cho công dân trong độ tuổi phải nhập ngũ đăng ký và được cơ quan chức năng quyết định cho phục vụ dân sự thay thế nghĩa vụ quân sự tại ngũ; đồng thời quy định thời hạn mà công dân phải thực hiện nghĩa vụ dân sự thay thế, thông thường là dài hơn thời hạn phục vụ tại ngũ trong lực lượng vũ trang (như ở Liên bang Nga, thời hạn thực hiện phục vụ dân sự thay thế gấp 1,75 lần so với thời hạn phục vụ tại ngũ được quy định trong Luật “về trách nhiệm quân nhân và nghĩa vụ quân sự).

Hy vọng, sau đây nhiều người sẽ hiểu rõ hơn về nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của công dân được quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đồng thời, khi Hiến pháp được thông qua vào cuối năm 2013, pháp luật sẽ sớm cụ thể hóa quy định về các hình thức “thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự”, góp phần bảo đảm công bằng xã hội hơn.

Thạc sĩ ĐOÀN PHÚC THỊNH

Vụ Quốc phòng và An ninh - Văn phòng Quốc hội