Cuộc hành trình của nhân loại đã in những dấu ấn khác thường trong năm 2008. Cảm xúc kém hứng khởi, tâm trạng lo lắng là điều dễ nhận thấy đối với người dân nhiều quốc gia khi bước vào năm 2009. Nhưng dưới bầu trời xuân của non sông nước Việt, những tia nắng ấm vẫn bừng lên.
Dù trí tưởng tượng có phong phú đến mấy cũng không ai có thể ngờ rằng khi các nhân viên của Lehman Brothers với vẻ mặt thất thần, bê những thùng giấy rời văn phòng vào ngày 14-9-2008, bước vội trên phố Uôn của nước Mỹ chính là lúc phát lộ một cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu với sức hủy hoại chưa từng thấy, mặc dù bây giờ nhìn lại người ta mới choàng tỉnh rằng các triệu chứng của nó thực ra đã xuất hiện từ cuối năm 2007. Khoảng 30.000 tỷ USD đã tan biến thành tro bụi trong đám cháy lớn này. Bóng đen của nó đang chi phối và bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống quốc tế năm 2008 và di chứng của nó có thể còn kéo dài đến hết thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI.
 |
|
Hồ Gươm. Ảnh internet |
Lần đầu tiên kể từ năm 1929, bóng ma “đại khủng hoảng kinh tế” đang tái hiện trên bình diện toàn cầu. Dường như, siêu cường Mỹ và cả thế giới đã không được chuẩn bị để có thể ứng phó kịp thời và hiệu quả cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất từ trước đến nay mà khởi đầu của nó chỉ là cái chết tưởng như thường tình và vô hại của một ngân hàng. Thế mà phố Uôn lập tức rơi vào hoảng loạn. Nhịp cầu lửa lan rộng. Khi nền kinh tế số một thế giới lên cơn co thắt thì như một hệ lụy không thể tránh khỏi, không chỉ các nền kinh tế lớn như EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga mà hầu như mọi nền kinh tế trên thế giới đều phập phồng bất ổn. Cái chết “bất đắc kỳ tử” của Lehman Brothers - ngân hàng có 158 năm tồn tại, đã từng trụ lại được sau hai cuộc đại chiến thế giới- dường như là cú điểm huyệt chết người đối với nền tài chính được “vỗ béo” bằng những trò chơi kích thích tiền tệ không bị kiểm soát trước hết là trên thị trường bất động sản và chứng khoán, cùng với đó là căn bệnh tiêu xài hoang phí của một xã hội tiêu dùng đang lên cơn sốt. Khi phân tích cuộc khủng hoảng, các chuyên gia kinh tế đã nêu ra ba nguyên nhân: Sự tham lam vô độ của các tập đoàn tài chính, sự ứng phó chậm chạp của các chính phủ, sự đổ vỡ niềm tin của dân chúng.
Hiện thời, trận cuồng phong tài chính này đang cuốn thế giới vào một cuộc khủng hoảng kinh tế mà hậu quả của nó được đánh giá là còn đáng sợ hơn cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 và cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997.
Tuy chưa chịu những tác động trực tiếp, nặng nề như nhiều nền kinh tế khác, nhưng Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy tai hại của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Nhìn lại lộ trình chuyển động của cỗ xe kinh tế Việt Nam năm 2008, các chuyên gia cho rằng có thể thấy rõ ba giai đoạn kế tiếp nhau: Phi nước đại và ủ bệnh; phanh gấp và phát bệnh; dốc sức kích cầu để giải cứu.
Cả nền kinh tế đã được hối thúc để đạt chỉ tiêu tăng trưởng GDP 8,5% - 9%. Trong bầu không khí nóng của cuộc tăng tốc, nhiều nơi đã thừa cơ gấp rút cắt đất, mở rộng các khu công nghiệp, lập dự án tràn lan, gây nên sự chồng chéo và dư thừa như các dự án bất động sản, nhà máy thép, sân gôn... Và cũng chẳng lấy gì làm vui khi chỉ trong một thời gian ngắn có tới 200 trường đại học và cao đẳng ra đời mà chất lượng thực sự còn là câu hỏi lớn như một sự thách đố. Còn các tập đoàn kinh tế nhà nước thì đua nhau thành lập công ty con, công ty cháu; náo nức đầu tư sang các lĩnh vực như tài chính, chứng khoán, bất động sản... Cùng với đầu tư công tràn lan thì tiêu dùng cá nhân cũng nở rộ. Sự mất cân đối đã xuất hiện, lạm phát phi mã, tăng vọt lên tới 25%, nhập siêu vượt mức an toàn...
Khi cỗ xe kinh tế đang tăng tốc thì nó đột ngột bị phanh gấp bằng những biện pháp tiết giảm quyết liệt nhằm mục tiêu được ưu tiên nhất là kiềm chế bằng được lạm phát. Chúng ta đã thu được kết quả cần thiết trong việc đẩy lùi lạm phát, ổn định được kinh tế vĩ mô. Đó là thành công rất quan trọng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Nhưng dường như ngay lập tức đã xuất hiện dấu hiệu thiểu phát và nguy cơ giảm phát ngày càng lộ rõ. Sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, bị đình đốn, hàng hóa không tiêu thụ được, xuất khẩu giảm sút, chứng khoán càng tụt dốc thê thảm... Những năm trước, vào dịp sát Tết, công nhân phải làm tăng ca, còn năm nay, nhiều nơi, công nhân buồn bã lũ lượt về quê vì mất việc làm.
Thực sự, trong cùng một thời điểm, nền kinh tế Việt Nam phải căng sức trên hai mặt trận: Chống giảm phát và không để lạm phát tái diễn. Đây là bài toán cực khó đối với một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, sức vóc còn có hạn.
Vạch ra những thách thức, khó khăn, chỉ ra những yếu kém, bất cập để chủ động đối phó, nhưng chúng ta cũng phải biết đánh giá đúng mức những nỗ lực và thành tựu, nhìn thấy hết những lợi thế và cơ hội để kịp thời nắm bắt lấy. Ngoài việc phải đương đầu với bão tố tài chính, năm qua chúng ta còn phải đối phó với nhiều đợt dịch bệnh, nhiều trận thiên tai như rét đậm rét hại, bão lũ, mưa lớn gây úng ngập nặng nề nhất trong vòng nửa thế kỷ nay trên địa bàn Hà Nội... Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008 chỉ đạt 6,28%, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu, nhưng đó là kết quả thật nhiều ý nghĩa trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang chìm trong khủng hoảng, nhiều nước tăng trưởng âm. Một thành tựu rất ấn tượng là cuối năm 2008, lần đầu tiên GDP bình quân tính theo đầu người của nước ta đã vượt qua ngưỡng 1.000 USD. Hai năm đầu tiên sau khi nước ta gia nhập WTO là một cuộc sát hạch thật sự.
Cuộc sát hạch này càng nóng bỏng và ngặt nghèo khi con tàu kinh tế Việt Nam sức vóc còn nhỏ, vừa ra đại dương đã gặp ngay sóng lừng. Vì thế, những thành tựu mà chúng ta giành được trong gian khó như vậy càng quý giá. Giới quan sát kinh tế nước ngoài đã liên tiếp đưa ra những đánh giá tích cực về khả năng trụ vững của nền kinh tế Việt Nam trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự ổn định chính trị - xã hội là một lợi thế, là tài sản vô giá trong một thế giới đầy biến động, dễ bị tổn thương, trong đó không ít quốc gia hiện đang chìm đắm trong những cơn binh lửa, bị xô đẩy và chia cắt thành những chiến tuyến đối lập cùng với những cây súng bị hận thù đốt nóng.
Trong xu thế trọng tâm thế giới đang dần chuyển dịch về phương Đông, Việt Nam vừa đi qua năm 2008 với những thành tựu đối ngoại nổi bật. Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức lớn từ các cuộc khủng hoảng khu vực và toàn cầu, nhưng chưa bao giờ chúng ta thấy được thế và lực của mình rõ và mạnh như ngày nay. Sau đúng 30 năm gia nhập LHQ, Việt Nam đã tham gia cơ cấu lãnh đạo thế giới. Việc Việt Nam hoàn thành tốt vai trò Ủy viên không thường trực của HĐBA đã làm sáng hơn vị thế mới của nước ta trên trường quốc tế, tạo động lực mới để đất nước phát triển bền vững trong một thế giới đang toàn cầu hóa sâu sắc. Mặc dù Nhật Bản tuyên bố tạm ngừng viện trợ ODA do tác động của vụ PCI, nhưng Hội nghị các nhà tài trợ năm 2009 cho Việt Nam vẫn cam kết đạt mức 5 tỷ USD. Năm 2008, kinh tế thế giới gặp khủng hoảng lớn như vậy, nhưng Việt Nam vẫn thu hút được tới 64 tỷ USD đầu tư nước ngoài, giải ngân kỷ lục là 12 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay. Điều đó cho thấy rõ ràng rằng giới kinh doanh quốc tế vẫn đặt niềm tin lớn vào triển vọng tươi sáng của nền kinh tế nước ta, Việt Nam vẫn là điểm đến đầu tư hấp dẫn và an toàn.
Hơn lúc nào hết, đây là lúc chúng ta phải tìm cách khơi mở cho bằng được mọi nguồn nội lực còn nằm trong tình trạng “ngủ đông”. Vốn trong dân, vốn nhà nước có thể huy động được cho đầu tư phát triển còn rất lớn. Cần tranh thủ thời cơ giá rẻ, tập trung giải ngân nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ. Năm nhóm giải pháp mà Chính phủ quyết định cuối năm 2008 đang tạo nên một sinh khí cần thiết cho nền kinh tế đang ở vào tình thế buộc phải cầm cự, thế thủ chờ thời để tránh rủi ro cả về phía người sản xuất cũng như người tiêu dùng. Việc gây dựng niềm tin trong một xã hội phải đương đầu với sức ép của những hệ lụy từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang dần lộ diện là điều vô cùng quan trọng.
Vấn đề then chốt hiện nay là “liều thuốc giải cứu” 1 tỷ, rồi 6 tỷ USD phải được “rót” đúng chỗ, mà đối tượng phải được quan tâm hàng đầu là hàng vạn doanh nghiệp nhỏ và vừa đang vật vã trong cơn bĩ cực. Gói kích cầu này phải góp phần chặn đứng tình trạng sản xuất bị đình đốn, khởi động lại những dự án, công trình quan trọng, tạo ra nhiều công ăn việc làm, không để công nhân bị đẩy ra đường, nông dân điêu đứng vì không bán được sản phẩm. Cũng không phải không có ý kiến cho rằng cần tạo ra “một vòng tròn khép kín” như một kiểu thành trì để bảo vệ các tập đoàn kinh tế nhà nước, nhưng ngày càng thấy rõ, tất cả các thành phần kinh tế, quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh, trong nước cũng như ở ngoài nước, phải được đặt trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Nếu các quan hệ thân quen mạnh hơn cơ chế thị trường, nếu các quan hệ thị trường bị thu hẹp bởi sự can thiệp hành chính đột ngột và cứng nhắc thì khó mà tránh khỏi sự “lịm dần” của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi họ không còn đủ sức chịu đựng gánh nặng về tín dụng, lãi suất, giá cả. Trong bộn bề công việc phải giải quyết, chúng ta phải tránh cho bằng được những bất cập, yếu kém trong công tác dự báo. Đến bây giờ nông dân vẫn chưa nguôi xót xa về vụ ngừng xuất khẩu gạo vì lý do bảo đảm an ninh lương thực, trong lúc ta có thể xuất khẩu với giá hơn 1.000 USD/tấn, còn khi được phép xuất khẩu thì giá gạo đã rớt xuống chỉ hơn 400 USD/tấn.
Cho dù chúng ta đã triển khai một trận chiến quyết liệt rộng khắp, trên nhiều tầng nấc, nhưng thật đáng lo ngại, tệ quan liêu, tham nhũng, thói đặc quyền đặc lợi, vô trách nhiệm, vô cảm... vẫn đang lộ diện như một nguy cơ lớn hãm hại công cuộc đổi mới. Những nguồn lực quý giá của đất nước vẫn đang bị tắc nghẽn, tước đoạt. Khi đất nước phải đương đầu với những thử thách mới, trận chiến chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực càng nóng bỏng. Cuộc đấu tranh này đang thử thách gay gắt bản lĩnh của một đảng cầm quyền. Cuộc kiến tạo lớn ở Thủ đô cũng như trên toàn đất nước sẽ không thể tiến bước nếu chúng ta không loại bỏ được những kẻ tham ô hám lợi, vô trách nhiệm, vô cảm đang chốt chặt trong các mắt xích của bộ máy công quyền, nếu không quét sách bọn ăn tàn phá hại trên mồ hôi nước mắt của nhân dân.
Đất nước đang gồng mình để đương đầu và vượt qua những khó khăn, thử thách lớn trong năm 2009. Trong bối cảnh chung đó, Thủ đô vừa mở rộng với bộn bề công việc, lại đang phải dốc sức để chuẩn bị đón Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội đang đến rất gần. Điểm đột phá để tạo sinh khí mới, sức mạnh mới bắt đầu từ đâu? Thật phù hợp và chí lý khi Thành ủy Hà Nội tiếp tục xác định cải cách hành chính và công tác cán bộ vẫn là hai khâu đột phá trong năm 2009. Từ Thủ đô nhìn rộng ra cả nước, đây thực sự là hai khâu then chốt có ý nghĩa quyết định kết quả của công việc thường nhật cũng như thành bại của một sự nghiệp lớn.
Chiến thắng vang dội của đội tuyển bóng đá Việt Nam mang về cho đất nước chiếc Cúp vô địch Đông Nam Á trong những ngày cuối năm 2008 là một minh chứng sống động cho bản lĩnh vượt khó của người Việt Nam. Đó là một bài ca tuyệt đẹp của tinh thần chiến đấu! Hành trình của đội tuyển tại giải AFF vừa rồi là một cuộc thử lửa ngày càng quyết liệt. Nhưng các tuyển thủ yêu quý của chúng ta đã biết đoàn kết, tất cả vào trận với một tinh thần ngoan cường, mang trong tim một niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng, càng bị đối phương dồn ép càng tỉnh táo để sẵn sàng thực hiện đòn “hồi mã thương” cực kỳ lợi hại.
Cảnh tượng hàng triệu người ở Thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng và trên khắp mọi miền Tổ quốc đổ ra đường mừng chiến thắng của bóng đá Việt Nam trong một niềm phấn khích khôn tả, cảnh tượng hàng vạn người náo nức tham dự Lễ phố hoa đầu tiên trên bờ hồ Hoàn Kiếm vào đêm giao thừa Tết dương lịch đã cho thấy các giá trị văn hóa và tinh thần có một ý nghĩa đặc biệt như thế nào trong tâm thức của người Việt, có thể tạo nên một sức mạnh đặc biệt như thế nào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Không ai không biết rằng đất nước đang đối mặt với những thử thách lớn trong năm 2009, nhưng tất cả đều hướng về phía trước, đều sẵn sàng với một tâm thế vững tin đi tới tương lai.
Trong suốt chiều dài lịch sử, cuộc hành trình của dân tộc đã phải trải qua biết bao biến động, thăng trầm. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã chứng tỏ khả năng thể hiện mình trong thử thách, trong những tình huống nan giải là một tố chất đặc biệt Việt Nam. Trong mọi nguồn lực để phát triển, nguồn lực con người là quyết định nhất. Để đất nước vượt qua được khó khăn thời khủng hoảng đòi hỏi ý chí, bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần gắn kết của cả một dân tộc. Tất cả những nhân tố đó, nếu được phát huy cao độ, chắc chắn sẽ tạo ra động lực lớn! Trong chiến tranh cũng như trong thời bình, chúng ta luôn luôn cần tinh thần chiến đấu. Giờ đây, cả đất nước đang vào cuộc với tinh thần chiến đấu.
Đó chính là bản lĩnh vượt khó!
Đó chính là sức mạnh vượt khó!
Theo HNMO