Dù vẫn trong ngưỡng an toàn nhưng nợ xấu ở Việt Nam đã đến lúc phải được xử lý bằng những giải pháp toàn diện và triệt để, không chỉ tháo gỡ tình trạng khó khăn trước mắt mà ngăn ngừa những nguy cơ trong tương lai.

Nợ xấu tới hạn

Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 với đặc điểm lan rộng rất nhanh nên gây tổn thất nghiêm trọng. Song nhờ can thiệp quyết liệt của các chính phủ và có phối hợp toàn hiệu quả nên đã ngăn chặn được diễn biến xấu hơn .

Để đẩy lùi khủng hoảng, các chính phủ đã chi ra khoản tiền khổng lồ để cứu trợ và kích cầu kinh tế. Hệ quả là nợ công tăng vọt, có nước lên tới 100% GDP.

Việt Nam đã bỏ ra 8 tỷ USD để kích cầu và sau đó bơm tiền cứu các ngân hàng yếu kém để tránh bị đổ vỡ.

Bởi vậy, nợ công của Việt Nam từ ngưỡng trên 40% đã tăng lên trên 50% GDP và dự báo sau năm 2015 sẽ lên mức 65% GDP. Hiện tại, mua sắm của chính phủ thường chiếm 40% GDP và 60% GDP là mua sắm và đầu tư của các thành phần kinh tế. Nợ xấu ngân hàng thực chất là nợ của người dân và doanh nghiệp do khó khăn nên tới hạn không trả được.

Từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay, Chính phủ đã 3 lần giải quyết nợ xấu của doanh nghiệp bằng hình thức giãn nợ, khoanh nợ và xóa nợ.

Vấn đề tranh cãi hiện nay là làm thế nào để thoát ra khỏi tình trạng này? Hoàn cảnh và môi trường kinh tế hiện giờ khác xa với những năm 90 khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào doanh nghiệp nhà nước, còn nay chỉ chưa đầy 40% GDP, còn lại là các thành phần kinh tế khác và khu vực đầu tư nước ngoài.

Ảnh minh họa: internet

Doanh nghiệp, ngân hàng cùng ngồi lại

Để giải bài toán này, trước hết, chúng ta phải phân loại nợ xấu theo tiêu chí ngành hàng, cụ thể của bất động sản, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ tài chính, ngân hàng, vận tải, du lịch là bao nhiêu?

Trên cơ sở phân loại ấy, chúng ta đánh giá triển vọng kinh tế, lĩnh vực nào có thể phục hồi nhanh và lĩnh vực nào cần ưu tiên phát triển vì lợi ích trước mắt và lâu dài.

Thứ hai là ngân hàng và doanh nghiệp phải cùng ngồi lại để tìm giải pháp khắc phục, phải cùng chia sẻ gánh nặng nợ xấu. Ngân hàng đã hy sinh một phần với việc trích dự phòng 67 nghìn tỷ đồng, và doanh nghiệp cũng phải giảm giá, chịu lỗ để xử lý nợ xấu.

Thứ ba là giãn nợ. Đa số doanh nghiệp Việt Nam vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn và trung hạn do thiếu nguồn vốn trung và dài hạn nên khi lãi suất tăng đột biến sẽ không có khả năng trả nợ và dẫn đến nợ xấu tăng vọt. Tình trạng này diễn ra rất lâu và hậu quả đã nhiều nhưng vẫn chưa thể xử lý được.

Ngoài ra, tình hình hiện nay có điểm khác với những lần khủng hoảng nợ xấu trước là ngân hàng không cho vay được vì người vay không còn tài sản thế chấp. Do đó, các ngân hàng phải tính đến hình thức cho vay theo dự án có hiệu quả và quản lý chặt dự án.

Thứ tư là phải tìm cách phá băng thị trường bất động sản. Trước hết là điều chỉnh mức độ bong bóng của thị trường này, không thể để tiếp diễn tình trạng nước có thu nhập thấp mà giá quá cao như Việt Nam hiện nay. Theo tính toán, cho vay của ngân hàng thế chấp bằng bất động sản chiếm tới 60% dư nợ, nếu không tháo gỡ được nút thắt này một cách bài bản sẽ khó mà xử lý được nợ xấu.

Kinh nghiệm của Nhật cho thấy, vào năm 1985, giá bất động sản cao nhất thế giới và khi thị trường này đột ngột hạ nhiệt đã kéo theo một loạt ngân hàng và công ty tài chính đổ vỡ và gần 20 năm sau mới giải quyết hết. Thực tế ở Việt Nam, tài sản của vụ đổ bể Epco Minh Phụng từ năm 1995 mà đến nay vẫn chưa bán hết.

Thứ năm là đẩy mạnh mua bán nợ qua Công ty Mua bán nợ của Bộ Tài chính, tăng vốn cho công ty này để mở rộng hoạt động mua bán nợ.

Thứ sáu là cho phép bán nợ cho các công ty nước ngoài, thay đổi mức khống chế sở hữu của một số loại hình doanh nghiệp không nằm ở những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn và thuộc nhà nước kiểm soát.

Cuối cùng, nhà nước đứng ra mua lại nợ như cách làm của Mỹ trong cuộc khủng hoảng năm 2008, đồng thời xem xét xóa nợ trong một số lĩnh vực, nhất là nông nghiệp.

Theo Báo Công thương