QĐND - Cha tôi là bộ đội Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ ngay từ trận mở màn ngày 13-3-1954, đánh chiếm trung tâm đề kháng Him Lam. Có lẽ đó cũng là lý do để mỗi dịp lên Điện Biên Phủ, tôi dành phần lớn thời gian thăm bảo tàng lịch sử. Mỗi hiện vật ở đây như lấp lánh, tỏa rạng quá khứ hào hùng của dân tộc. Tôi trân trọng lật từng lưỡi xẻng, lưỡi cuốc mòn vẹt, sứt mẻ vì mảnh bom, vết đạn xuyên thủng. Đâu là lưỡi xẻng, lưỡi cuốc mà cha tôi đã sát cánh cùng lớp lớp chiến sĩ khoét núi, mở đường kéo pháo, xây dựng hệ thống chiến hào tiến công, vây lấn, thực hiện phương châm “đánh chắc, tiến chắc”.

Chiến sĩ Điện Biên Phủ tỉnh Nghệ An thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ.

Cha tôi kể: Chỉ trong 10 ngày, bộ đội ta đã đào hơn 100km hào chiến đấu, hầm trú ẩn tránh phi pháo, tạo thế trận vây hãm tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Từng ngày, từng giờ siết chặt cổ họng từng phân khu cứ điểm, cắt ngang sân bay Mường Thanh. Câu chuyện trên làm tôi nhớ tới công lao của biết bao người thợ làng rèn Nho Lâm (Diễn Châu) và Thượng Rừng (Nghi Lộc), Nghệ An nổi lửa rèn xẻng, rèn cuốc cung cấp cho Mặt trận Điện Biên Phủ. Nhìn số hiện vật trưng bày, tôi liên tưởng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội, dân công, thanh niên xung phong sử dụng tới gần 4 vạn lưỡi xẻng, lưỡi cuốc. Ông Vũ Đình Chi, quê xã Diễn Phong, huyện Diễn Châu (Nghệ An), nguyên Bí thư Huyện ủy Diễn Châu, nguyên Trưởng ban cung cấp hậu cần kháng chiến chống Pháp của huyện Diễn Châu hào hứng kể cho thế hệ trẻ về kỳ tích chỉ trong một tháng, hơn 300 lò rèn làng Nho Lâm (bao gồm các xã Diễn Thọ, Diễn Phú, Diễn Lộc) và hơn 100 lò rèn làng Thượng Rừng (Nghi Xuân, Nghi Lộc) liên tục nổi lửa rèn 10.000 lưỡi xẻng, 5000 lưỡi cuốc chim cung cấp cho Mặt trận Điện Biên Phủ. Riêng làng đúc lưỡi cày chợ Si (xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu) còn rèn cả búa tạ, xà beng, dao phát cung cấp cho 500 đội viên thanh niên xung phong mang tên Cù Chính Lan Nghệ An mở đường vào bến phà Tạ Khoa; bảo đảm giao thông khi qua đèo Pha Đin, ngã ba Cò Nòi dẫn vào Tuần Giáo.

Theo tìm hiểu, nguồn nguyên liệu sắt, thép khi ấy chủ yếu là thanh tà vẹt đường sắt hư hỏng, thanh giằng cầu bị bom ném cong vênh từ Hoàng Mai tới cầu sắt Yên Xuân. Bên cạnh đó là hàng vạn tấn than củi, dao cùn, lưỡi cày, lưỡi mác, lưỡi cưa, lưỡi rìu… được nhân dân Nghệ An đóng góp.

Một trong những phong trào hậu phương chi viện cho Mặt trận Điện Biên Phủ của tỉnh Nghệ An là “Mùa đông binh sĩ”, “Hũ gạo nuôi quân kháng chiến”, “Áo ấm bộ đội”. Phong trào này đã động viên các gia đình khá giả, thương gia ủng hộ 5000 xe đạp loại tốt. Những chiếc xe đắt tiền được gá lắp thêm tay ngai bằng thân tre già, gia công thêm vành xe bằng nan hoa gỗ, lắp thêm đèn gầm để tránh máy bay khi hành quân đêm.

Cũng chính Đoàn dân công của tỉnh Nghệ An đã chuyển 10.000 lưỡi xẻng được bọc kín bằng bẹ chuối, phủ đầy lá ngụy trang vượt hàng trăm ki-lô-mét kịp giao hàng tại trạm hậu cần trung tuyến trước ngày toàn mặt trận mở đợt tấn công đợt 2 vào thượng tuần tháng 4-1954, góp phần làm nên chiến thắng "chấn động địa cầu".

Bài và ảnh: VĂN HIỀN